Saturday, September 13, 2014

• CHÍNH THỂ VNCH VẪN CÒN SỐNG

Sự Chính danh của nước VNCH

Vài chuyện ở hội đồng LHQ năm 1947-1949

1. Việt Nam Cộng Hoà:
Ở trang 536 trong cuốn Year Book năm 1947-1948 của LHQ có đoạn:
Five Council members offered draft resolutions or amendments concerning the relation between ECAFE [1] on the one hand and the Republic of Indonesia and Viet-Nam on the other. 
The representative of the U.S.S.R. proposed (E/907 and Corr.1) that the Council recommend that the Indonesian Republic and the Republic of Viet-Nam should be accorded associate membership in the Commission. 

The representative of New Zealand suggested (E/931) that the Council submit to the Security Council all of its own as well as of ECAFE's records concerning possible Indonesian membership in the Commission and seek the Security Council's assistance, since the latter was seized of the Indonesian question, and that the Secretary-General be requested to submit to the next (i.e., fourth) session of ECAFE a full statement on the constitutional and de-facto situation in Indonesia.

The representative of the Netherlands proposed (E/937) an amendment to the New Zealand draft resolution, deleting therefrom the request for Security Council assistance (but not deleting the transmission to the Security Council of the records on the Indonesian application) and the request to the Secretary-General that he submit to ECAFE's fourth session a statement on the de facto situation in Indonesia. 


The representative of Australia proposed (E/957) that the Economic and Social Council go on record as considering that ECAFE already had authority to deal with applications for membership from areas within its geographical scope and that no action was required on the matter at that session of the Council. 


The representative of the ByelorussianS.S.R. suggested (E/967) that the operative part of the U.S.S.R. proposal (recommending that ECAFE admit the Indonesian Republic and the Republic of Viet-Nam as associate members) be incorporated into the Australian suggestion. At its 200th meeting, on August 16, 1948, the Council after rejecting the U.S.S.R. draft resolution (E/907) (by a vote of 9 to 4, with 5 abstentions, on the recommendation bearing on the Republic of Indonesia, and by a vote of 11 to 3, with 4 abstentions, on the recommendation regarding VietNam), adopted the Australian proposal (E/957) by a vote of 12 to 3 with 4 abstentions.


Năm thành viên Hội đồng được cung cấp dự thảo sửa đổi các nghị quyết hoặc tu chính liên quan đến mối quan hệ giữa ECAFE ở một mặt và nước Cộng hòa Indonesia và Việt Nam một mặt khác. Đại biểu của Liên Xô đề xuất (E/907 và Corr.1) Hội đồng nên đề nghị Cộng hòa Indonesia và Việt Nam Cộng Hoà được phép trở thành thành viên liên hiệp trong Ủy ban.

Đại diện của New Zealand gợi ý (E/931) rằng Hội đồng đệ trình lên Hội Đồng Bảo An tất cả các hồ sơ của mình và hồ sơ của ECAFE liên quan đến vấn đề Nam Dương có thể trở thành thành viên trong Ủy ban và tìm sự hỗ trợ của Hội đồng Bảo An, vì điểm thứ nhì được thụ lý từ câu hỏi của Nam Dương, và Tổng thư ký được yêu cầu đệ trình trong phiên họp kế tiếp (tức là, thứ tư) của ECAFE một tường trình đầy đủ về tình hình hiến pháp và tình trạng thực tế ở Nam Dương.

Đại diện của Hà Lan đề xuất (E/937) tu chính cho bản dự thảo mới của New Zealand, xóa bỏ yêu cầu được Hội đồng Bảo An hỗ trợ (nhưng không xóa thông tín đến Hội đồng Bảo An các hồ sơ gia nhập của Nam Dương) và yêu cầu đến Tổng thư ký rằng ông đệ trình ở phiên họp ECAFE lần thứ tư một tuyên bố về tình hình thực tế ở Nam Dương.

Đại diện của Úc đề xuất (E/957) Hội đồng Kinh tế và Xã hội cứ ghi nhận trong lục xem xét vấn đề ấy vì ECAFE đã có thẩm quyền xử lý các đơn gia nhập cho các thành viên từ các khu vực trong phạm vi địa lý của nó và không cần làm gì khác tại kỳ họp đó của Hội đồng.

Đại diện Cộng Hoà Xã Hội Chủ Nghĩa Belarus đã đề nghị rằng (E/967) tác phần của đề nghị từ Cộng Hoà Liên Bang Xô Viết (đề nghị rằng ECAFE đưa Nam Dương Cộng Hoà vàViệt Nam Cộng Hoà vào ghế thành viên liên kết) được gộp chung vào đề nghị của Úc Đại Lợi. Trong cuộc họp thứ 200 vào ngày 16 tháng 8 năm 1948, Hội đồng sau khi từ chối dự thảo (E/907) của Cộng Hoà Liên Bang Xô Viết (bằng số biểu quyết 9 trên 4, với 5 phiếu trắng về việc đề nghị về Cộng Hoà Nam Dương, và số biểu quyết 11 trên 3 với 4 phiếu trắng về việc đề nghị cho Việt Nam), tiếp nhận đề nghị của Úc Đại Lợi (E/957) với số biểu quyết 12 trên 3 với 4 phiếu trắng.


Trang 536 trong cuốn Year Book năm 1947-1948 của LHQ.
2. Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà:
Ở trang 509 và 510 trong cuốn Year Book năm 1948-1949 của LHQ có ghi:

The question of the admission of Viet-Nam was considered by the Commission at its fourth session, but the Chairman ruled that no valid application for associate membership from the Democratic Republic of Viet-Nam had been received. 



At its fifth session, the Commission had beforeit: a request for admission from the Democratic



Republic of Viet-Nam, and an application presented by France for the admission of the State of Viet-Nam. Both applications were considered simultaneously. 



The representatives of France, Australia, Cambodia and the United Kingdom supported the candiditure of the Government of the State ofViet-Nam as being the duly-constituted and legal Government of the territory. The representatives of France and the United Kingdom pointed out that ECAFE's terms of reference stated that applications could only be considered when they were made, on behalf of a territory, by the Government responsible for its international relations, which, they felt, applied in the case of the application of the State of Viet-Nam. An application could also be considered when made by a territory not a United Nations Member, but responsible for its own international relations. These conditions were not met in the case of the "so-called" Democratic Republic of Viet-Nam, and they accordingly requested the Commission to declare the application not admissible. 



The representatives of the USSR and the Republic of Indonesia supported the application of the Democratic Republic of Viet-Nam as the only legal Government of the territory. The USSR representative observed that the United Kingdom and Australian representatives, among others, had stressed the question of responsibility for international relations. He did not feel it correct that the application of the Democratic Republic of Viet-Nam could not be accepted because it "had not at present its own international relations". Although some representatives had expressed the view that the general criterion for deciding the independence of a country was that of general recognition, he believed that other considerations should be taken into account, such as the territory and population a Government controlled, its means, and its control of the armed forces.



The representative of India announced his intention to support both candidatures. The applications of such Governments as actually controlled the economic life of the region, he considered, should be supported. 



By 8 votes to 1, with 3 abstentions, the Commission admitted the State of Viet-Nam as an associatemember of ECAFE. The application of the Democratic Republic of Viet-Nam was rejected by 2 votes in favour to 7 against, with 3 abstentions.


Vấn đề về việc gia nhập của Việt Nam được Ủy Ban xem xét tại kỳ họp thứ tư, nhưng Chủ tịch phán quyết rằng không nhận được đơn làm thành viên liên kết hợp lệ từ Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa.

Tại kỳ họp thứ năm, Ủy ban đã nhận được: một thỉnh cầu gia nhập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và một đơn khác do Pháp đệ nạp cho Quốc Gia Việt Nam. Cả hai đơn đều được xem xét cùng một lúc.

Các đại diện của Pháp, Úc, Campuchia và Vương quốc Anh hỗ trợ trường hợp của Chính phủ Quốc Gia Việt Nam như một Chính phủ của một lãnh thổ được thành lập hợp lệ. Các đại diện của Pháp và Vương quốc Anh đã chỉ ra rằng điều khoản tham chiếu ECAFE tuyên bố các đơn gia nhập chỉ có thể được xem xét khi họ đã đại diện cho một lãnh thổ, từ Chính phủ chịu trách nhiệm về quan hệ quốc tế, trong đó, họ cảm thấy, đơn gia nhập của Quốc Gia Việt Nam đã hội đủ. Một đơn gia nhập cũng có thể được xem xét khi được một lãnh thổ không phải là một quốc gia thành viên của Liên Hiệp Quốc nhưng tự chịu trách nhiệm về các mối quan hệ quốc tế của mình. Những điều kiện này không được hội đủ trong trường hợp của "cái gọi là" Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, và theo đó họ yêu cầu Ủy ban tuyên bố đơn tham gia ấy không thể chấp nhận được.

Các đại diện của Liên Xô và Cộng hoà Indonesia hỗ trợ đơn gia nhập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa là Chính phủ hợp pháp duy nhất của lãnh thổ. Đại diện Liên Xô nhận thấy rằng Vương quốc Anh và đại diện của Úc, trong số những người khác, đã nhấn mạnh vấn đề trách nhiệm đối với quan hệ quốc tế. Ông không cảm thấy nó đúng là đơn của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa không thể được chấp nhận bởi vì nó "đã không biểu thị quan hệ quốc tế của mình". Mặc dù một số đại biểu đã bày tỏ quan điểm cho rằng các tiêu chí chung để quyết định sự độc lập của một quốc gia là sự công nhận chung, ông tin rằng những cân nhắc khác nên được xem xét, chẳng hạn như lãnh thổ và dân số một chính phủ kiểm soát, phương tiện của nó, và việc kiểm soát các lực lượng vũ trang.

Đại diện của Ấn Độ thông báo ý định hỗ trợ cả hai ứng cử viên. Các đơn gia nhập của các Chính phủ ấy có vẻ thực sự kiểm soát đời sống kinh tế của khu vực, ông cho rằng, nên được hỗ trợ. 

Với 8 phiếu biểu quyết trên 1 và 3 phiếu trắng, Ủy ban thừa nhận Quốc Gia Việt Nam như một thành viên liên kết của ECAFE. Đơn gia nhập của Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa đã bị từ chối từ kết quả 2 phiếu ủng hộ so với 7 phiếu chống và 3 phiếu trắng. 

 Trang 509 trong cuốn Year Book năm 1948-1949 của LHQ.
Trang 510 trong cuốn Year Book năm 1948-1949 của LHQ.


3. Rút ra cái gì?

- Việt Nam Cộng Hoà đã từng được công nhận là một quốc gia chính thức và đã từng được biểu quyết là thành viên kết giao của Liên Hiệp Quốc từ tháng 8 năm 1948.

- Việt Nam Dân Chủ Cộng Hoà đã bị khước từ đơn gia nhập ngay từ 1948 và không được công nhận là một quốc gia hợp pháp.





Chú thích:

[1] ECAFE là viết tắt của Economic and Social Commission for Asia and the Pacific (Uỷ ban kinh tế và xã hội Á Châu và Thái Bình Dương).








Duy Thức

Chỉ Có "Một ĐƯỜNG BINH…” để khỏi bị "CẨU ĐẦU TRẢM"

 


Mình không trưng hình ảnh cờ vàng hay người lính VNCH vì những biểu tượng ấy đã nằm trong tim mình. Và xin viết STT này để điều chỉnh lại nhận thức của một số người.
Vừa qua trên FB có một bạn đã viết một STT nói rằng rất phản cảm khi có nhiều người bỏ avatar là cờ vàng, gợi lại kỷ niệm về Quân lực VNCH...

Bạn ấy cho rằng không nên trưng lại những biểu tượng của một chính thể đã chết, như thế là ăn mày dĩ vàng, hãy chấp nhận như ông bà ta nói "Được làm vua thua làm giặc"

Mình không trưng hình ảnh cờ vàng hay người lính VNCH vì những biểu tượng ấy đã nằm trong tim mình.Và xin viết STT này để điều chỉnh lại nhận thức của một số người. Mong là các bạn hãy thật bình tĩnh để suy nghĩ khách quan về mặt lý luận sau khi đọc bài "Nền dân chủ khiếm khuyết"của mình bên dưới.



 


Thứ nhất thể chế VNCH không chết. Thể chế chính trị là những quy định luật lệ, các tiêu chuẩn pháp lý của một chế độ xã hội. Trên căn bản những điều này VNCH đã đặt ra một bản hiến pháp dân chủ tiến bộ trên tất cả để điều hành đất nước. Bản hiến pháp ấy ngày nay vẫn trường tồn và có sức sống mảnh liệt hơn bao giờ hết. Thể chế tam quyền phân lập và nền tự do báo chí cũng không chết. Chỉ có các thể chế được xây dựng trên nền tảng của CNCS là đã chết. Một xác chết chưa chôn.

Thứ hai quốc kỳ là một biểu tượng cho một thể chế chính trị của một quốc gia. Khi mà thể chế chính trị chưa chết thì lá quốc kỳ đó cũng chưa chết. Nó cũng giống như người Do Thái bị mất nước 2000 năm nhưng lá quốc kỳ của họ không bao giờ chết.

Thứ ba khi mà thể chế chính trị chưa chết, quốc kỳ chưa chết thì những kỷ niệm về một quân đội đã từng bảo vệ thể chế chính trị,quốc kỳ,hiến pháp ấy cũng chưa chết

Cho nên các bạn phải tách biệt rõ ràng giữa chính thể và chính quyền, giữa cái chết sinh học và sự sống trong ý niệm. Theo như vậy thì chỉ có chính quyền VNCH chết thôi. Nhưng chính quyền không đại diện cho dân vĩnh viễn. Đó là cái thực thể mà dân chỉ bầu lên trong một giai đoạn lịch sử nhất định và có thể truất phế bất cứ lúc nào.

Chính thể VNCH mới chính thực là đứa con nhân dân Việt Nam rứt ruột đẻ ra, mới thực sự là của dân. Bởi vì dân có quyền dạy dỗ nó bằng biểu tình, bãi công, đảo chính chư không phải là chính thể độc đảng khi mà dân muốn dạy là có thể vô tù.

Do vậy 30/4/1975 dân nghe CS chỉ bóp chết cái chính quyền chứ chưa bóp chết được cái chính thể đó. Nó vẫn còn sống "nhăn răng" đến ngày hôm nay. Nếu hiện tại Chủ Nghĩa Cộng Sản đang thắng thế, VÀ cả thế giới đang nô nức lên thiên đường CS, thì LÚC ẤY mới có thể nói là chính thể VNCH đã chết. Trái lại nó, CHÍNH THỂ VIỆT NAM CỘNG HÒA, hiện tại đang thắng, THẮNG OANH LIỆT, và THẮNG HÙNG TRÁNG.


 

Như vậy lên FB đăng hình ảnh cổ vũ cho một chính thể, một ngọn cờ đang thắng thế có nghịch lý không nhỉ? Hoàn toàn không. Cổ vũ cho một quân đội đã bảo vệ cho chính nghĩa ấy có phải "ăn mày dĩ vãng" không nhỉ? Cũng không.


Huống chi trong bài dưới mình đã phân tích sự tham nhũng, độc đoán của chính quyền VNCH trước 1975 chỉ là một giai đoạn tất yếu mà bât cứ quốc gia nào cũng phải trải qua trên con đường xây dựng một xã hội dân chủ. Đó là con đường đúng đắn nhất mà dân tộc Việt Nam phải đi qua. Hãy hình dung rằng vào năm 1975, "đế quốc Mỹ" đang đi trước đằng xa, sau lưng là Nhật, Tây Đức, Pháp, Anh... Hai anh Hàn Quốc và Nam Việt Nam đạp xe song song. Sau nữa là một đoàn các nước đứng bên rìa, chưa vào đường đua như Đông Đức, khối CS châu Âu, các nước Ả Rập...

Đùng một cái anh Bắc Việt Nam nghe lời thằng Liên Xô và Trung Quốc nhảy vào gạt anh Nam Việt Nam ra khỏi đoàn đưa vào tốp đứng lề đường. Bốn mươi năm sau anh Hàn Quốc khi xưa song hành cùng Nam Việt Nam giờ ngon lành quay lại bắt con gái NVN cởi truồng khám chơi. Đó là một mối nhục và một nuối tiếc xót xa.

Người cầm lái đã chết nhưng chiếc xe đạp vẫn còn đó. Chiếc xe không có lỗi gì hết và được thực tế chứng minh đó mới là chiếc xe đưa dân tộc đi đúng đường. Thế thì tại sao phải thay chiếc xe khác trong khi chỉ cần đổi người lái và đưa nó trở lại cuộc đua? Chiếc xe ấy chính là chính thể VNCH đó các bạn à.

Như vậy thì treo cờ vàng, cổ vủ thể chế VNCH, người lính VNCH là mong muốn đất nước trở lại vạch xuất phát gia nhập vào đoàn đua làm cho dân giàu nước mạnh đó. Làm thế có gì xấu? Trở lại chính thể VNCH có gì sai? Chưa kể là nó còn có thể đòi được Hoàng Sa và Trường Sa trong tay Trung Quốc khi chúng đã cướp những hòn đảo này trong tay họ.

Do vậy việc làm của các bạn trên FB này là hoàn toàn đúng đắn vì tương lai dân tộc VIệt chứ không vì tham vọng đưa trở lại một chính quyền đã chết để ăn mày dĩ vãng như một số bạn lầm tưởng. Viết STT này mình không muốn tạo ra tranh luận và mong tất cả các bạn hãy bình tâm suy nghĩ cho thấu đáo.

Dương Hoài Linh, FB




Lá Cờ, Màu Cờ và Hồn Nước

Bảo Giang (Danlambao) - Cờ Vàng là màu cờ mang theo Hồn Nước, mang theo trọn niềm tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai sau. Cờ Vàng là truyền thống, là lịch sử là nền văn hóa của chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là màu cờ của sự sống của Tự Do của Độc Lập Dân Tộc. Cờ Đỏ là cờ của sự chết, của man rợ. Nó là màu cờ mang tâm huyết của CS Phúc Kiến. Nó giết chết hết tất cả mọi niềm tin, mọi hy vọng, mọi yêu thương, mọi nhân ái trong lòng người Việt nam. Nó là tội ác và là gian trá. Nó là cờ của Nô Lệ, có truyền thống, lịch sử và nền văn hóa thuộc về nô lệ. Không thuộc về truyền thống, lịch sử, văn hóa Việt Nam...

Sau Hiệp Định Genève 20-7-1954 Việt Nam bị phân chia thành hai lãnh thổ. Cả hai đều được công nhận trên trường Quốc Tế. Mỗi bên thành lập chính phủ riêng và xây dựng xã hội theo một thể chế chính trị khác nhau. Từ đó, tạo ra hai truyền thống, lịch sử và nền văn hóa, giáo dục công dân hoàn toàn khác nhau.

Miền Bắc được gọi là Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa, đặt dưới sự lãnh đạo và quản chế của khối cộng sản quốc tế. Nửa phần đất nước này có dân số đông hơn ở miền Nam, được lèo lái, được (bịt mắt) dẫn đi theo chủ nghĩa cộng sản. Cộng sản chủ trương xây dựng xã hội miền Bắc theo thuyết Tam Vô: Vô Gia Đình, Vô Tổ Quốc, Vô Tôn Giáo. Lấy bạo lực chính trị và dối trá làm nền tảng để áp đặt và cai trị đất nước. Vì theo chủ nghĩa Tam Vô, CS đã có những quy trình và học tập nhằm tiêu diệt nền tảng văn hóa nhân bản của xã hội và của gia đình. Khởi đầu là bài giáo khoa cơ bản dùng để đào tạo các đoàn đảng viên, và buộc mọi học viên phải đạt trong học tập. Bài giáo khoa này vừa được Trần Đĩnh, một cựu đảng viên từ thời 1949-50 tiết lộ trong Đèn Cù "Định nghĩa đảng viên là ngọc là vàng của đảng cho nên vào tổng kiểm thảo, Tố Hữu yêu cầu học viên rất ngặt... Không đạt yêu cầu căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ thì bản tổng kiểm thảo bị “phá sản,” học viên đó phải ngồi học lại cho tới khi nào lập trường vô sản, lập trường nông dân thắng, anh ta công khai tuyên bố căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ mình (mới thôi)” (trang 74-75). Kế đến là bản cáo trạng phi nhân tính, phi đạo nghĩa “Địa chủ ác ghê” do Hồ Chí Minh viết ra để khởi đầu và làm nền tảng, không phải chỉ cho cuộc đấu tố nhân dân Việt Nam thời 1953-56, nhưng còn là cho cuộc sống của đảng. 

Việc định nghĩa và thực tế áp dụng những bài giáo khoa cho các đoàn đảng viên, song hành với việc triệt để tuân thủ tinh thần bản cáo trạng “địa chủ ác ghê” vào cuộc sống của đảng, Cộng sản đã tạo ra hỗn loạn và làm đảo lộn mọi sinh hoạt trong xã hội. Ở đó là cuộc sống vô văn hóa, vô kỷ cương, vô luân thường, vô đạo lý. Chỉ có bạo lực khủng bố và dối trá làm chủ thể trên cả luật pháp và xã hội. Ở đó, lá cờ màu đỏ có một sao vàng là tâm huyết của đảng cộng sản Phúc Kiến, (Đây là cờ của đảng cộng sản Phúc Kiến do Li Ji Shen (Lý Kỳ Thân) sáng lập vào khoảng 11.1933 đến 1-1934. Sau cuộc nổi dậy ở Phúc Châu, Phúc Kiến bị phe Tưởng Giới Thạch dẹp yên, Li Ji Shen đem tàn quân sáp nhập vào với Mao Trạch Đông. Sau này Y làm phó chủ tịch nhà nước Trung cộng vào năm 1949) được thiếu tá Hồ Chí Minh, trong đội quân giải phóng nhân dân Trung cộng, (theo tài liệu còn lưu trữ của Quân ủy trung ương Trung Cộng) đem vào Việt Nam khoảng 1940 và trở thành biểu tượng màu cờ sắc áo cho nhà nước Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa trong việc thực hiện mọi chỉ thị từ Trung cộng. Rồi sau khi Cộng sản chiếm trọn miền Nam Việt Nam vào ngày 30-4-1975, lá cờ Phúc Kiến của nhà nước CHXHCNVN trở thành một bàn đạp cho Trung cộng tràn xuống phương Nam.

Miền Nam Việt Nam sau ngày 20-7-1954 vẫn còn là một nước theo hệ quân chủ Lập Hiến với tên gọi Quốc Gia Việt Nam. Chính phủ do Thủ Tướng Ngô Đình Diệm lãnh dạo được thành lập vào ngày 7-7-1954. Dưới sự lãnh đạo của Thủ tướng Ngô Đình Diệm, miền Nam xây dựng xã hội theo con đường Tự Do, Dân Chủ, dần đổi sang thể chế Cộng Hòa. Về văn hóa và giáo dục công dân được mở rộng theo hướng đi nhân bản, lấy Công Bình, Bác Ái, Nhân Bản Vị (nay gọi là Nhân Quyền) làm gốc sinh. Tất cả đều hướng đến mục đích phục vụ con người trong công ích và Công Lý theo tiêu chuẩn của luật pháp. Miền Nam cương quyết bảo vệ sự Độc Lập và toàn vẹn lãnh thổ nên ngoại trưởng Trần Văn Đỗ không ký vào bản hiệp định chia đôi đất nước.

Trong chủ trương bảo vệ đời sống an sinh của đồng bào và nhằm đem lại hạnh phúc, ấm no và đời sống yên vui, thanh bình cho công dân. Ủy Ban Bảo Vệ Bắc Việt Nam của Quốc Gia Việt Nam đã được thành lập. Vào ngày Ủy Ban 28-4-1954 đã tìm cách kêu gọi dân chúng và bảo vệ dân chúng trốn thoát chế độ cộng sản tại miền Bắc. Kết quả của chính sách đúng đắn này là có hơn một triệu người đạp trên cái chết để trốn chạy cộng sản, di cư vào Nam tìm tự do. Lá Cờ Vàng ba sọc đỏ, trước đó và cho đến ngày 30-4-1975 (nhiều nơi đến ngày 01-5-1975) là nghi biểu, là màu cờ sắc áo, biểu tượng cho dân tộc và Quốc Gia Việt Nam. Sau đổi là Việt Nam Cộng Hòa.

Sau ngày quốc hận 30-4-1975, màu cờ của Quốc Gia Việt Nam đã tung bay trên khắp nẻo đường thế giới. Bất cứ nơi nào có người Việt Nam trốn chạy cộng sản đến sinh sống, nơi ấy có Cờ Vàng tung bay, và chính phủ sở tại đã có những văn bản chính thức công nhận đây là màu cờ của người Việt Nam Tự Do. Từ đó, Cờ Vàng là biểu tượng, là màu cờ của những người yêu và được sống trong Tự Do, sống trong nền văn hóa Nhân Bàn, tôn trọng Công Lý và Nhân Quyền. 

I. Truyền thống và lịch sử của màu cờ nói gì?
Trên đây là vài nét về hai màu cờ sắc áo riêng biệt của hai thể chế tại Việt Nam. Nhưng màu cờ nào sẽ là cuộc sống, là Niềm Tin Yêu và Hy Vọng của chúng ta và của đất nước hôm nay và mai sau?

Khi nói về Truyền Thống và Lịch Sử của một màu cờ, tôi cho rằng có viết hàng trăm trang sách cũng chưa hết những điều cần viết, nói chi đến một vài trang giấy ngắn. Ở đây, tôi xin đưa ra hai hình ảnh mang tính truyền thống, bao gồm cả tính lịch sử và giáo dục công dân, mà hai tấm ảnh là biểu tượng từ hai màu cờ này muốn truyền đi. Truyền đi như là một chứng minh căn bản nhất, hùng hồn nhất, chính xác nhất và có thể là câu trả lời, giải nghĩa hoàn hảo nhất cho màu cờ và sắc áo mà nó đại điện.

1. Tấm hình thứ nhất


Tấm hình ghi lại cảnh có một đứa bé độ lên ba, mặt mũi lem luốc, mặc áo quá khổ, không có quần, hai tay cầm lá Cờ Đỏ lớn quá khổ so với tuổi đời. Tuy thế, nó diễn một dáng diệu đầy uy phong khi đi vòng quanh đấu trường, nơi được gọi là tòa án nhân dân. Ở đó không thấy có quan tòa, nhưng có hai đấu tố viên tuổi chưa quá 6,7 tuổi, vẻ như đang hạch tội và kết án một tên “địa chủ” ác ôn, hay viên cựu lý trưởng, chánh tổng, viên chức nào đó. Ông ta đang cúi mặt nhận tội trước khi bị xử tử? Rồi trong vòng vây của người, và dưới sự hướng dẫn đầy khí thế của đứa trẻ lên ba, tay cầm cờ quét lê trên mặt đất là hai tên du kích với cây súng dài lăm lăm trong tay. Đây là một tấm hình rất đặc biệt. Nó nói lên toàn bộ nền văn hóa giáo dục cũng như truyền thống và lịch sử của lá Cờ Đỏ do Hồ Quang đem từ bên Tàu sang. Rồi chẳng bao lâu sau, nó đã tạo nên một “chiến thắng long trời lở đất” trong mùa đấu tố 1953-56.

a, Về Truyền thống, Tấm hình truyền đi một truyền thống giết người man rợ của chế độ. Chỉ trong vòng có khoảng ba bốn năm, nó đã giết chết gần 200,000 ngàn người Việt Nam và làm tan hoang hàng triệu gia đình khác. Theo truyền thống này, việc xử án giết người (qua tấm hình) không cần luật lệ, đôi khi không cần cả quan tòa. Chỉ cần những kẻ vô tri, ngây ngô, bất giáo, không có một chút hiểu biết gì giống như đứa trẻ lên ba, chưa biết mặc quần kia, nhưng biết cầm cờ, biết hò hét, trợ thủ cho vài ba đứa trẻ vô tri khác làm quan tòa như hai đứa trẻ trong hình là đạt, là có thể tạo ra một thành tích lẫy lừng cho đảng theo khẩu hiệu “thà giết lầm hơn bỏ xót”. (Đỗ Mười là tác giả của khẩu hiệu này?). Ngẫm, nhìn. Tấm hình đã nói lên trọn những điều nó cần nói. Chỉ những kẻ vô tri làm điều bất giáo mới mở ra được cái truyền thống này.

b, Về Lịch sử. Tấm hình ghi lại và truyền đi một hình ảnh tạo nên lịch sử của lá Cờ Đỏ và CS là, những kẻ vô tri kia, áo thì quá khổ, quần không có, đồng nghĩa với việc CS tự khoác cho nhau cái áo thụng cách mạng, nhưng không thể che được phần ngây ngô, vô kiến thức như một đứa trẻ lên ba. Nó không có quần, giống như kẻ trong thời ăn lông ở lỗ chưa được giáo hóa. Tuy thế, thành phần chưa được giáo hóa này lại được coi là những kẻ tiên phong cầm cờ đi tạo lịch sử, đi làm cách mạng. Tiếc rằng, những nhà “cách mạng” chưa biết mặc quần này thuộc diện vô tri, chẳng biết cái cờ nó cầm trên tay là cái gì, có nguồn gốc lịch sử ra sao. Tất cả, từ trên xuống dưới đều giống như các hạng mục voi giấy, ngựa giấy, chó giấy quay tít trong cái Đèn Cù mà Trần Đĩnh diễn tả. Đó là lịch sử của gian trá và tội ác! 

c, Về Giáo dục, văn hóa. Tấm hình truyền đi một lối, một nền văn hóa man rợ, đầy dối trá, không có hàm tính người của Cộng sản. Nó dạy cho người, cho trẻ thơ còn vô tri biết vui mừng, hồ hởi phấn khởi đi theo đảng giết người vô tội. Nó dạy cho trẻ bài học vô giáo dục, vô văn hóa để đạp đổ lễ giáo, tôn nghiêm trong trật tự gia đình và xã hội. Chúng dạy cho trẻ thuộc lòng những vô lễ, tao, mày, thằng trọc phú, thằng lý trưởng ác ôn… để tạo khi thế giết người. Ai cũng biết, trong nội bộ, CS đã thành công trong việc huấn luyện, đào tạo các học viên qua bài giáo khoa "phải căm thù bố mẹ, đoạn tuyệt với bố mẹ" thì đây, tấm hình này chính là cảnh diễn lại bài học lịch sử mà rất nhiều đứa trẻ đã phải học, phải tập trước khi được đẩy vào đấu trường. Cô tôi, một người chứng kiến nhiều cuộc đấu tố ở Thái Bình kể lại là: “Nó chỉ tay vào mặt bố mẹ đẻ mà đấu theo lời dặn dò, mớm mồi của những kẻ vô tri bất giáo trong đội đấu”. Đội xúi bảo chúng, “Cháu có muốn cứu bố mẹ cháu không? Nếu muốn thì cứ ra làm như thế. Có tự tay ra đấu tố bố mẹ cháu thì mới cứu bố mẹ cháu khỏi chết!” Đến khi, đứa bé vừa diễn xong lời dạy của đội. Những nhà cách mạng không có quần kia, liền vỗ tay, bác loa mồm oang oang: “Đấy đồng bào nghe rõ cả rồi đấy. Chính con cái của tên trọc phú này đã ra lời tố cáo tội ác của nó, thì nó còn chối vào đâu được nữa”! Hỡi ôi, một bài học mà Lưu cộng Hòa, một đảng viên CS từ thời 1949-50 đã phải thốt lên “Nay phải nhận mình là con vật mới đúng!” (Đèn Cù tr.75)

Đó là sự nghiệp lớn mang trọn ý nghĩa, chủ đích, truyền thống, lịch sử rồi giáo dục và văn hóa của Cờ Đỏ. Hỏi thử xem, nơi có Cờ Đỏ quản trị có phải là nơi để cho những ước mơ, cho những con người đã có trí khôn, đã được giáo hóa, tìm về để nương náu và đặt tin yêu hy vọng vào nó hay không? 

2. Tấm hình thứ hai
Tấm hình của Thiếu tá Ngụy Văn Thà và đồng bạn đã hy sinh cùng với con tàu ở Hoàng Sa. Họ chết cho quê hương trong cuộc chiến bảo vệ Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974.


a, Về Truyền thống. Tấm hình truyền đi hình ảnh người chiến binh Ngụy Văn Thà đã hiên ngang bước đi theo truyền thống bất khuất của người xưa Anh đã nối theo chí hùng ngàn năm của tiền nhân, nêu cao ý chí của dân tộc, lấy chính máu xương của mình để bảo vệ lấy bờ cõi của non sông.

Đất của Mẹ, một ngọn cỏ ta thề không bỏ,
Núi nước Nam, một viên đá ta quyết chẳng rời! 

Như thế, máu hồng từ trái tim anh nhỏ xuống trên chiến trường Hoàng Sa vào ngày 19-1-1974 chính là dòng máu nêu cao một truyền thống bất di bất dịch từ ngàn đời của dân tộc Việt Nam. Đó là truyền thống bảo vệ màu cờ sắc áo Độc Lập tự chủ của dân tộc.

b, Về Lịch sử. Tấm hình ghi lại một chiến tích lẫy lừng của con dân Việt Nam trước cảnh ngoại xâm. Vào cuộc chiến, sinh tử, thắng bại là lẽ thường tình, người ta không luận một chiến thắng, một cái chết trong cuộc thắng, thua. Nhưng lịch sử là sử luận về một thiên anh hùng ca của những người đã hy sinh vì màu cờ sắc áo của dân tộc mà Ngụy Văn Thà và các chiến hữu của anh trong quân lực Việt Nam Cộng Hòa đang mang trên vai. Lịch sử cũng còn ghi lại rằng. Trong ngày người chiến binh Ngụy Văn Thà và đồng đội của anh hy sinh mạng sống của mình để bảo vệ nền Độc Lập và sự vẹn toàn lãnh thổ Việt Nam, thì ở nơi phương Bắc kia, một nửa phần đất của quê hương bị dẫn đi theo chủ nghĩa Tam Vô, Tập đoàn cộng sản đã đứng dưới lá cờ Phúc Kiến, hát ca, nhảy mừng khi quân Tàu Ô chiếm được Hoàng Sa, là phần đất Việt Nam, trực thuộc chính phủ Việt Nam Cộng Hòa theo hiệp định Genève 1954, nhưng CS đã ký giao, bán chủ quyền cho Trung cộng vào năm 1958. Lịch sử này ngàn năm đã dễ phôi pha!

c, Về văn hóa giáo dục công dân. Tấm hình ấy truyền đi nét cao đẹp và trân quý của nền Văn Hóa nhân bản dân tộc mà những người trai Ngụy Văn Thà và các đồng đội của anh đã thụ hưởng tại miền Nam ở dưới lá Cờ Vàng. Họ đã hy sinh bản thân mình vì cuộc sống của dân tộc. Tấm hình ấy chính là di sản thuộc nền Văn Hóa Nhân Bản của Quốc Gia Việt Nam sẽ còn mãi mãi truyền lại mai sau. Nói gì, nghĩ gì? Hẳn nhiên là không còn một truyền thống, một lịch sử, một nền văn hóa giáo dục công dân nào hoàn hảo và cao quý hơn thế nữa. 

Như thế, màu CỜ VÀNG lẫm liệt, phủ trên quê hương Việt Nam, phủ trên thân xác Ngụy Văn Thà và đồng đội của ông, có phải là Màu Cờ của mọi ước mơ nhân bản Việt Nam sẽ tìm về để giữ gìn và lưu truyền lại cho dòng sử mai sau hay không? Nơi có Cờ Vàng tung bay, có phải là nơi có đủ tin yêu hy vọng để cho con người tìm về nương thân không? Hay trên phần đất có đứa trẻ kéo lê cái CỜ ĐỎ trên mặt đất kia, với những cuộc đấu tố kinh hoàng trong lịch sử, mới chính là nơi để mọi người cùng tìm về để sống bên nó, hưởng yên vui, hạnh phúc với nó? Tôi cho rằng, không có câu trả lời nào chính xác hơn là việc nhìn vào cuộc sống của người dân ở dưới mỗi màu cờ này. 

II. Cuộc sống dưới mỗi màu cờ cho ta thấy những gì?
1. Cờ Vàng: Màu cờ có mang theo Hồn Nước, có mang theo trọn niềm tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai sau hay không?

Phải. Tôi khẳng định là như thế. Tôi khẳng định không phải vì có người thân, cũng không phải vì đã có hàng triệu quân dân cán chính miền Nam, ròng rã trong hơn hai mươi năm cuối cùng trước ngày 30-4-1975 đã hy sinh vì màu cờ, và sắc áo của Việt Nam Cộng Hòa. Nhưng khẳng định vì Đại Nghĩa của dân tộc Việt. Khẳng định vì Truyền Thống, vì Lịch sử, vì nền Văn hóa và giáo dục công dân mà màu cớ ấy đã tiếp nhận từ tiền nhân, rồi mang theo trong dòng sinh mệnh của lịch sử mà truyền đến hôm nay. Màu cờ này được tạo ra từ tâm huyết Việt Nam. Tâm huyết bảo vệ sự trường tồn và toàn vẹn lãnh thổ Việt Nam. Tâm huyết bảo toàn trọn vẹn nền văn hóa nhân bản dân tộc. Tâm huyết bảo vệ trọn vẹn ý nghĩa Đồng Bào trong dòng sử lập quốc Việt Nam. Hơn thế, còn là tâm nguyện của ngàn ngàn sau. Bởi vì người Việt Nam chưa bao giờ ngừng đi tìm sự Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền. Người dân Việt Nam chưa bao giờ rút lui trong cuộc chiến bảo toàn nền Độc Lập và phần lãnh thổ của tiền nhân để lại. Như thế, truyền thống này, lịch sử này, văn hóa này là của chúng ta và thuộc về chúng ta, thuộc về con cháu chúng ta.

Bạn cho rằng tôi ca quá lời chăng? Nếu thế, tôi mời bạn nhìn xem những cảnh thực tế trước mắt bạn đây. Xem xong rồi, tự bạn hãy trả lời cho bạn, cho thân nhân, cho người quen của bạn nghe, biết về câu trả lời của bạn ra sao nhá. Bạn có thấy bất cứ một người thuyền nhân Việt Nam nào, kể cả cán cộng cho đến công dân đi trên nhưng chiếc thuyền ra khơi, hay chạy băng qua đồi núi để ra khỏi Việt Nam sau ngày 30-4-1975, có ai trong đó muốn xin đến tỵ nạn, xây nhà, lập nghiệp tại một nước là bằng hữu, là đồng chí của lá Cờ Đỏ của Việt Cộng như, trước kia thì có Liên Xô, Tàu, khối Đông Âu... Nhưng nay chỉ còn lại Trung Cộng, bắc Triều Tiên và Cu Ba không? 

Tôi quả quyết là không. Những kẻ điên cũng không dám xin đến những nơi ấy. Trái lại, tất cả những người kể trên, bao gồm luôn cả những người chết trên biển hay những người không có cái may mắn xuống được thuyền ra khơi, đều ước mơ đến được bến bờ tự do, bao gồm Hoa Kỳ, Úc, Canada, Pháp, Đức… và các đồng minh trong khối Tây Âu, là bằng hữu đồng vai sát cánh với là Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa trước năm 1975 để xây nhà dựng nghiệp, để mưu cầu cho con cái được hưởng lấy một nền giáo dục nhân bản. Cách riêng, bản thân được hưởng tự do, được công lý bảo vệ và được sống trong yên bình. Tôi chẳng thấy một ma dại nào dám xin đến những nước bằng hữu, đồng chí với Cờ Đỏ. Tại sao thế?

Thực tế hơn, bạn hãy nhìn xem, những Nguyễn Tấn Dũng, Trương Tấn Sang, hay những Triết, Hùng, Phúc, Thanh, Quang, thậm chí, Mười, Anh… và con cái, thân nhân của những Đồng, Chinh, Giáp, Duẩn và của tất cả những cán cộng có quyền chức từ hàng tướng tá, tỉnh thành đến phường quận huyện xem. Tại sao họ không mua đất, mua nhà, mua dinh thự, mua xe, mua tàu du lịch, không đưa con cái đi học, lập nghiệp ở những quốc gia mang tên Trung cộng, Bắc Triều Tiên, Cu Ba là những anh em đồng chí với Cờ Đỏ, mà lại đua nhau lén lút, đi chui lòn, tìm đến những nước họ luôn mồm gọi là thuộc thế lực thù địch bao gồm Mỹ, Canada, Úc, Pháp, Đức…. là bằng hữu với Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa vào trước năm 1975 mà nương thân? Họ là những thằng người điên loạn, hay là những “bọn ma cô đĩ điếm” chính hiệu như lời Phạm Văn Đồng đã nói?

Tôi chẳng bảo họ điên, cũng chẳng bảo họ là những "ma cô đĩ điếm" như lời Phạm Văn Đồng, nhưng là những đa trá. Mồm thì oang oang chống Cờ Vàng, nhưng thực trong bụng thì ngày đêm mơ ước tìm về nương náu, mong hưởng nhờ ân huệ ở những nơi chốn có lá Cờ Vàng của Việt Nam Cộng Hòa hiện diện. Có lạ lắm không? Thử hỏi xem, tại sao những quan cán cộng, từ nhớn đến nhỏ, từ trung ương đến địa phương đều âm thầm, lặng lẽ tìm đến những nơi có Cờ Vàng “thù địch” để nương nhờ? Họ là những kẻ đã phản đảng, hay những nơi đây có trọn tin yêu hy vọng và bao dung, khoan hậu, nhân bản. Là nơi đặt ước mơ của mọi người? Tại sao họ không đến nương nhờ những nơi có Cờ Đỏ tung bay? Chẳng lẽ, nơi đó chỉ có sự chết và dối trá?

2. Cờ Đỏ: Cờ của sự chết, của man rợ, của dối trá làm cho người người sợ hãi, phải chạy trốn. Hay của hy vọng để cho mọi người tìm về với thiên đàng CS?

Trước hết, bạn có thấy gia đình nào phải lén lút trốn vùng Cờ Vàng để tìm đến sinh sống và nương nhờ dưới ánh Cờ Đỏ để mong cầu có Tự Do, Dân Chủ, Nhân Quyền và được công lý bảo vệ trong cuộc sống yên vui không? Nếu có, nay họ ra sao rồi? Xin bạn đừng vẽ vời ra câu chuyện là có dăm ba kẻ chui lòn từ phía Cờ Vàng vào nơi có Cờ Đỏ quản trị để kiếm năm ba miếng ăn qua ngày đấy nhá. Đấy không phải là một cuộc di cư tìm sống, xây nhà dựng nghiệp, không phải là một ý thức đứng đắn, nhưng là cuộc chui lòn tìm miếng ăn nhất thời mà thôi. Và những người vì lý do này, lý do khác, phải trở lại nơi đó năm ba tuần, nửa tháng, cũng không thuộc về câu hỏi này. Xác định như thế thì tôi không thấy bất cứ ai từ phía Cờ Vàng tìm về với Cờ Đỏ để hưởng phúc. Tôi chỉ thấy người bỏ ra đi. 

Giai đoạn trước di cư. Nơi nào có dăm ba cái Cờ Đỏ phất phơ là y như có sự chết rình rập. Bởi vì, sau đêm Việt Minh về là ngay sáng hôm sau, trên đầu cái cọc cắm giữa đường làng, nơi có nhiều người qua lại là có cái đầu của một viên chức, hay của người có con em làm việc trong thành phố, đôi khi là những phú hộ, treo ở đó. Rồi ở ngay phía bên dưới là một cái lá Cờ Đỏ với hàng chữ có khi sai cả chính tả. “Việt Minh xử tử Việt gian bán nước”! Ghê chưa! Họ có luật về đêm và luật ấy viết rằng. Việt Minh đến gõ cửa nhà nào vào ban đêm thì sáng hôm sau sẽ có cái đầu của nạn nhân treo ở ngã ba đầu làng hay giữa chợ! Chẳng cần nói thêm, dân chúng nhìn thấy cảnh khủng bố ấy là mặt không còn giọt máu. Kẻ có phương tiện thì âm thầm lặng lẽ bỏ làng mà về thành. Có nhiều nơi, cả làng cùng bảo nhau bỏ chạy hay vào tề. Làng tôi ở Thái Bình là một làng tề nổi tiếng. Sau ngày 20-7-54 cả làng đã di cư vào Nam. 

Đến sau ngày 20-7-1954, không phải một vài người, một vài làng, mà khéo toàn miền Bắc đã lên cơn sốt, bỏ chạy khi biết tin Cờ Đỏ sẽ kéo vào thành phố. Kết quả, có khoảng một triệu người may mắn chạy thoát. Mà xúi quẩy làm sao, đã chạy vào Nam rồi vẫn chưa yên. Ông già 54 vào chiều ngày 30-4-1975, chống cái gậy ra đến đầu ngõ. Mắt mờ chưa nhìn rõ mặt người, tai chỉ nghe được câu nói Việt cộng đã vào làng, cái gậy rời khỏi tay. Ông run rẩy ngã sấp mặt xuống đất khi có tiếng hoan hô “cách mạng” thành công! Tội cho ông, chạy trốn đã hai mươi năm ròng, vẫn không thoát được cái ách cộng!

Trước khi đó, đồng bào Việt Nam từ Gio Linh, Quảng Trị đến cao nguyên miền Trung, hay Bình Long, Tây Ninh, Xuân Lộc đã phải gồng gánh, bồng bế nhau trên tay, trên vai, dù phải chết trên đường vì đạn pháo của Cờ Đỏ đuổi theo. Họ vẫn quyết đạp lên cả xác người để tìm về nơi có Cờ Vàng tung bay (1972). Rồi đến những đoạn đường… chết, Pleku, Kon Tum, Tư Hiền, Hội An, Đà Nẵng… bạn thấy những gì? Tại sao đồng bào Việt Nam phải đạp trên cái chết, chồng mất vợ, cha lìa con, anh mất em, người mất sản nghiệp… để trốn cái Cờ Đỏ như thế? Rồi đến hàng triệu người ra khơi, vượt biển trên những chiếc thuyền mong manh để đi tìm Cờ Vàng Tự Do? Mà nào họ có được thoải mái ra đi đâu. Tất cả đều lặng lẽ trốn mà đi. Khi đi, lại cũng đạp trên cái chết mà đi. Có người chưa kịp xuống thuyền, một loạt đạn của Cờ Đỏ vang lên trong đêm tối, máu đỏ của người vượt biên thấm vào lòng biển đen! Người sống vội lao xuống thuyền đã trúng đạn. Sóng gào đưa họ vào lòng biển đen. Cõi chết hay Tự Do? 

Khi nhìn lại những cảnh thực này, bạn có cho rằng người Việt Nam dại đột khi đem mạng sống của mình ra để đánh đổi, một là Tự Do, hai là cái chết, khi họ tìm về với Cờ Vàng hay không? Nếu không dại, có phải là họ điên chăng? Nghe nói, những kẻ điên cũng sợ chết. Chỉ có người Việt Nam yêu Tự Do mới không sợ chết, mới đạp trên cái chết mà đi khi thấy Cờ Đỏ kéo đến. Tại sao? Tại vì nó còn kinh hoàng hơn cả sự chết!

Tóm lại, truyền thống, lịch sử văn hóa và thực tế trong đời sống chứng minh rằng:

Cờ Vàng là màu cờ mang theo Hồn Nước, mang theo trọn niềm tin yêu, hy vọng của con dân và của núi sông Việt Nam hôm nay và mai sau. Cờ Vàng là truyền thống, là lịch sử là nền văn hóa của chúng ta và thuộc về chúng ta. Đó là màu cờ của sự sống của Tự Do của Độc Lập Dân Tộc.

Cờ Đỏ là cờ của sự chết, của man rợ. Nó là màu cờ mang tâm huyết của CS Phúc Kiến. Nó giết chết hết tất cả mọi niềm tin, mọi hy vọng, mọi yêu thương, mọi nhân ái trong lòng người Việt nam. Nó là tội ác và là gian trá. Nó là cờ của Nô Lệ, có truyền thống, lịch sử và nền văn hóa thuộc về nô lệ. Không thuộc về truyền thống, lịch sử, văn hóa Việt Nam.

Tháng 1, 2015


Cao-Đắc Tuấn
Tóm lược: 
Lá cờ vàng ba sọc đỏ của người Việt hải ngoại (NVHN) thường bị cộng sản Việt Nam và nhiều người, thường là thiên cộng hoặc ngây thơ chính trị, cho là biểu tượng của quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) đã mất. 


Dựa vào diễn giải sai lầm này, nhà nước cộng sản và những người thiên cộng xuyên tạc những nỗ lực của NVHN đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam là được nung nấu bởi lòng hận thù vì thua trận và có mưu đồ phục quốc. Trên thực tế, NVHN dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho:
  • (1) di sản tốt đẹp của chính thể VNCH trong quá khứ; 
  • (2) xác nhận bản sắc của cộng đồng trong xã hội nơi xứ sở họ cư ngụ trong hiện tại; và 
  • (3) tinh thần, ý chí dân tộc và lòng thương yêu đồng bào để thúc đẩy tự do dân chủ trong tương lai. Sự khác biệt, giữa ý nghĩa của lá cờ vàng ba sọc đỏ của NVHN và của quốc gia VNCH đã mất, rất tinh tế nhưng rất quan trọng. Cộng sản Việt Nam (CSVN) khai thác tính chất thiếu rõ rệt đó để tạo chia rẽ giữa NVHN và người dân Việt Nam trong nước, và giữa các nhóm trong NVHN. Cùng với ác tâm gán ghép NVHN với hận thù thua trận và mưu đồ phục quốc, CSVN và những người thiên cộng toan tính dùng chiến thuật kamikaze, sẵn sàng hy sinh cờ đỏ để đổi lấy sự hủy diệt cờ vàng, trong giải pháp hòa hợp hòa giải. Người Việt trong nước cần phải cổ xúy cờ vàng trong nước để tạo dựng đoàn kết với NVHN và gửi một thông điệp mạnh mẽ cho tà quyền cộng sản và thế giới về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dân Việt.
Lá cờ thường được dùng là biểu tượng cho một quốc gia, tổ chức, hội đoàn, hay một cơ sở. Cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho quốc gia Việt Nam Cộng Hòa (VNCH) cho tới năm 1975. Khi cộng sản tiến chiếm miền Nam năm 1975, hàng triệu người miền Nam rời bỏ quê hương. tỵ nạn cộng sản. Họ đem theo lá cờ vàng ba sọc đỏ và gây dựng một cộng đồng người Việt hải ngoại (NVHN) càng ngày càng to lớn và hùng mạnh. Lá cờ vàng ba sọc đỏ đó, hiện nay được coi là biểu tượng cho cộng đồng NVHN, được công nhận rộng rãi bởi các chính quyền địa phương tại xứ sở nơi họ cư ngụ.

Trong bài này, tôi sẽ không đề cập đến ý nghĩa của quốc gia và lá cờ tiêu biểu cho quốc gia, vì đề tài đó rất rộng lớn, và chỉ có chút liên hệ đến ý chính bài này. Ý nghĩa lá cờ một quốc gia hiện hữu trên thế giới không có gì khó hiểu. Tuy nhiên, khi một quốc gia bị xâm lấn và chiếm đóng bởi một quốc gia khác, vấn đề trở nên phức tạp, như trường hợp quốc gia VNCH bị xâm lấn và chiếm đóng bởi quốc gia Việt Nam Dân Chủ Cộng Hòa (VNDCCH) như được biết lúc ấy. Vấn đề sẽ còn phức tạp hơn nữa khi hai quốc gia đó đã từng là một quốc gia độc lập nhưng bị chia đôi, như nước Việt Nam năm 1954.

Câu hỏi là: 

Ý nghĩa lá cờ vàng ba sọc đỏ của NVHN hiện tại là gì?

Tôi sẽ không đề cập chi tiết đến nguồn gốc lịch sử của lá cờ vàng ba sọc đỏ vì có rất nhiều tài liệu về chuyện đó (Xem, thí dụ như, Dân 2012; Đặng 2013). Một cách vắn tắt, lá cờ vàng ba sọc đỏ có nguồn gốc ít nhất từ năm 1890 (Dân 2012; Đặng 2013) dưới thời vua Thành Thái. Qua bao lần thay đổi, lá cờ trở về hình dạng cờ vàng ba sọc đỏ vào năm 1948 thời vua Bảo Đại và qua hai chính thể VNCH. Điểm quan trọng là cờ vàng ba sọc đỏ đã từng là cờ của toàn thể nước Việt Nam (bấy giờ có tên là Đại Nam), và hiện hữu trước lá cờ đỏ sao vàng của nước VNDCCH, bây giờ là Cộng Hòa Xã Hội Chủ Nghĩa Việt Nam (CHXHCNVN).

Tuy nhiên, việc lá cờ vàng ba sọc đỏ là quốc kỳ của quốc gia VNCH cho tới năm 1975 khác với việc lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng hiện nay của NVHN. Sự khác biệt này rất tinh tế và thường bị lẫn lộn ngay cả với vài NVHN. CSVN có thể cũng không thấy sự khác biệt đó, hoặc thấy nhưng làm như không thấy, khai thác tính chất thiếu rõ rệt của sự khác biệt đó để xuyên tạc về NVHN, tạo chia rẽ giữa NVHN và người dân Việt Nam trong nước, và giữa các nhóm trong NVHN.

Trong phần trình bày sau đây, tôi lý luận rằng NVHN dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ thuần túy là biểu tượng cho cộng đồng NVHN, và không phải là biểu tượng cho quốc gia VNCH trước năm 1975, tuy họ vẫn không quên chính thể VNCH. Do đó, về phương diện pháp lý, lá cờ vàng ba sọc đỏ có đầy đủ đặc tính hợp pháp của bất kỳ lá cờ nào cho một quốc gia, tổ chức, hội đoàn, hay một cơ sở.

A. Lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của NVHN cho di sản tốt đẹp trong quá khứ, xác nhận bản sắc trong hiện tại, và tinh thần tự do dân chủ cho tương lai
NVHN trưng bày lá cờ vàng ba sọc đỏ tại nhiều nơi công cộng, cơ sở thương mại, phố xá trong cộng đồng, các cuộc diễn hành, biểu tình, trên khán đài, trong các chương trình văn nghệ, v.v... Lá cờ vàng, do đó, không được dùng là biểu tượng cho quốc gia VNCH trước 1975, mà là biểu tượng tinh thần trong những hoạt động của NVHN khắp nơi trên thế giới. Những biểu tượng tinh thần này có thể được phân ra ba loại chính theo khía cạnh ý nghĩa thời gian: ký ức, bản sắc, vàtinh thần dân tộc tự do dân chủ.

1. Lá cờ vàng là biểu tượng cho ký ức trong quá khứ và là một phần quan trọng trong di sản NVHN:
Là một cộng đồng tị nạn chính trị phải lưu vong nơi xứ lạ quê người, NVHN đương nhiên có những hoài cảm về quá khứ. Sự nhung nhớ, tiếc nuối về quá khứ hoàn toàn không dính líu gì đến hận thù, cay đắng. Trên thực tế, NVHN thừa biết quốc gia VNCH không còn nữa. Chuyện đó không có nghĩa là tinh thần của chính thể VNCH không còn nữa. Ngược lại là khác, như sẽ được trình bày sau, cái tinh thần đó còn được tiếp tục và phát huy ngày càng mạnh mẽ hơn. NVHN lựa chọn lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của cộng đồng NVHN vì lá cờ giúp họ tạo dựng lại ký ức mà họ không muốn quên.

Tạo dựng ký ức, hoặc cái gọi là "dự án ký ức chiến lược" theo Aguilar-San Juan (2009, 65-66, 128), là một tiến trình quan trọng mà NVHN dựa vào để giữ lại danh tính và giá trị văn hóa của họ (sđd.). Duy trì quá khứ và tham gia các hoạt động tái tạo quá khứ - chẳng hạn như biểu tình, dựng đài tưởng niệm, hoặc chào lá cờ của Nam Việt Nam cũ - không phải là một biểu hiện của sự cay đắng, giận dữ, hoặc hận thù (Cao-Đắc 2014a, 326). Thay vào đó, những nỗ lực này "xây dựng và đào tạo ký ức trong một cách để củng cố ranh giới lâu dài của cộng đồng" (Aguilar-San Juan 2009, 131).

Tại Hoa Kỳ, nhiều tượng đài, đài tưởng niệm đã được dựng lên trong cộng đồng người Mỹ gốc Việt như là một phần của những ký ức xã hội này. Thí dụ, đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam (Hình 1) và tượng tưởng niệm thuyền nhân (Hình 2), cả hai đều nằm trong thành phố Westminster, California, là bằng chứng mạnh mẽ của những "dự án ký ức chiến lược" này. 





Thành phố Westminster ở California không phải là nơi duy nhất mà những "dự án ký ức chiến lược" được thực hiện. Nhiều tượng, đài tưởng niệm đã được dựng lên trong các cộng đồng NVHN ở các thành phố khác tại Hoa Kỳ và các nước khác, chẳng hạn như đài tưởng niệm chiến tranh Việt Nam tại Houston, Texas; tượng mẹ và con tỵ nạn ở Ottawa, Canada; đài tưởng niệm thuyền nhân Việt với lòng biết ơn ở Victoria, Canada; đài tưởng niệm thuyền Việt Nam ở Bankstown, New South Wales, Australia; đài tưởng niệm thuyền thân Việt Nam ở Bagneaux, Pháp; đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở Hamburg, Đức; đài tưởng niệm thuyền nhân Việt Nam ở Geneva, Thụy Sĩ (Cao-Đắc 2014a, 327).

Giống như các đài tưởng niệm, lá cờ vàng ba sọc đỏ đóng vai trò tạo dựng ký ức xã hội và ghi nhận di sản dân tộc. Khi nhìn lá cờ vàng bay phất phới trên đường phố hoặc trong những ngày lễ hội họp, NVHN được nhắc nhở đến quá khứ là phần kỷ niệm trong đời họ. Các thế hệ sau, có ít hoặc không có ký ức về quá khứ dính líu đến cờ vàng ba sọc đỏ nên không có những tình cảm sôi động như thế hệ đầu tiên, nhưng họ vẫn tiếp tục coi lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho ký ức này vì họ được thế hệ đầu giải thích nguồn gốc đó.

NVHN đi ra nơi vùng đất mới, làm lại cuộc đời. Họ vẫn có thể dùng một biểu tượng mới mẻ, đánh dấu cuộc sống mới. Họ vẫn có thể dùng một biểu tượng nguồn gốc dân tộc, thí dụ con Rồng cháu Tiên, có lẽ còn có ý nghĩa dân tộc trường tồn hơn cờ vàng ba sọc đỏ. Nhưng những biểu tượng này chỉ có giá trị lịch sử mà không có giá trị ký ức. Ngoài ra, cái giá trị ký ức của lá cờ vàng ba sọc đỏ có ý nghĩa nhất vì nó gợi đến mốc thời gian và lý do cho sự ra đi của đợt NVHN đầu tiên. Tuy nhiên, duy trì ký ức của một việc không có nghĩa là muốn làm sống dậy việc đó. Bạn có thể giữ một lá thư tình với người yêu cũ là một kỷ niệm nhưng bạn không muốn lập lại cuộc tình đó. Trong trường hợp lá cờ, vấn đề hơi có chút khác, vì lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng cho quốc gia VNCH, nên việc duy trì lá cờ vàng ba sọc đỏ đưa đến tức khắc hình ảnh quốc gia đó. Vì vậy, có sự mơ hồ thiếu rõ rệt về ý nghĩa của biểu tượng này.


Có hai khía cạnh trong vấn đề này.

  • Trước hết, nếu một ký ức nhắc nhở đến một việc xấu xa nhục nhã thì ta có nên duy trì cái ký ức đó không? Nếu VNCH quả thật là quốc gia của chính quyền ngụy, đi bợ đít Mỹ, bị quân dân Việt Nam đánh đuổi phải chạy, như CSVN vẫn tuyên truyền một cách ngu dốt và hiểm độc, thì NVHN có muốn giữ lại cái ký ức đó không? Đương nhiên là không. Họ sẽ không muốn bị thế giới cười chê. Họ sẽ nhân dịp này mà dùng biểu tượng khác và không muốn bị nhắc lại cái quá khứ tủi nhục, xấu xa. Giả sử bạn mang một họ có liên hệ đến một quá khứ xấu xa tàn ác, thí dụ như Hitler, khi bạn có cơ hội đổi tên, bạn có muốn giữ lại họ đó không? Hoặc bạn bị cha mẹ đặt cho một tên xấu xí (thí dụ Nguyễn Văn Dốt Nát, Trần Thị Lăng Loàn) và phải xấu hổ mang tên đó đi học, bị bạn bè chế giễu. Khi bạn có cơ hội đổi tên, chắc chắn bạn sẽ không ngần ngại lấy một tên khác, tốt đẹp hơn.
Đằng này, không những NVHN không dùng dịp này để lấy biểu tượng khác, mà họ lại còn đồng loạt trên toàn thế giới, không cần ai hoặc tổ chức nào hô hào dụ dỗ, tiếp tục dùng cờ vàng ba sọc đỏ. Không những thế, NVHN còn hãnh diện về lá cờ vàng, trưng bày khắp nơi, trong mọi dịp lễ, văn nghệ, hội họp, địa điểm kinh doanh, v.v... Điều đó chứng tỏ cái quá khứ của VNCH có cái gì tốt đẹp, xứng đáng để NVHN yêu quý tôn trọng, và muốn gắn bó mãi mãi. Chỉ cần chứng cớ NVHN dùng lại lá cờ vàng là biểu tượng cộng đồng NVHN cho thấy lá cờ vàng và chính thể VNCH là thể chế cao quý, hào hùng, mà NVHN mãi mãi ghi nhớ. Do đó những gì CSVN nói xấu về chính thể VNCH là láo khoét, bịa đặt, và bóp méo sự thật.
  • Thứ nhì, tuy chính thể VNCH huy hoàng tốt đẹp, NVHN không duy trì lá cờ vàng ba sọc đỏ với ý định "phục quốc," mà chỉ vì lòng thương nhớ luyến tiếc cho thời vàng son. Hơn nữa, cho dù họ có ý định khôi phục lại quốc gia VNCH, họ không có ý định gây dựng lại y hệt những gì trước năm 1975, mà họ sẽ làm tốt đẹp hơn, để phù hợp với thế giới và văn minh hiện đại. CSVN lý luận rằng NVHN giữ cờ vàng vì họ nung nấu hận thù và muốn phục quốc. Bằng cách dùng từ ngữ "phục quốc" thay vì "tiếp nối," "tiếp tục," hoặc "phát huy tinh thần," CSVN và những người thiên cộng vẽ ra hình ảnh cộng đồng NVHN là những người điên rồ, dại dột, vẫn còn mơ tưởng đến một quốc gia đã chết. (Dựa vào định nghĩa rộng rãi của "quốc gia" trên căn bản bốn yếu tố chính của dân tộc: ngôn ngữ, văn hóa, truyền thống, và nguồn gốc dân tộc (Council 2005), tôi có thể lý luận là quốc gia Việt Nam Cộng Hòa chưa chết. Nhưng đó không phải là ý chính của bài này.) Vì là những người không có tình cảm và chỉ biết chém giết cướp bóc, CSVN không hiểu được cái giá trị vô bờ bến của sự duy trì lòng luyến tiếc quá khứ huy hoàng.
Ta có thể coi chuyện NVHN giữ gìn lá cờ vàng ba sọc đỏ tương tự như chuyện một người con giữ gìn bức hình mẹ mình sau khi bà đã mất vì bức hình đó là biểu tượng cho tình yêu thương mẹ. Người con hoàn toàn không có ý định giữ gìn bức hình mẹ với mơ ước là mẹ mình sống lại, và bức hình bà mẹ không tượng trưng cho xương cốt bà đã mục nát trong quan tài nằm sâu dưới lòng đất. Nhưng người con đó sẵn sàng tiếp nối những đức tính của mẹ mình cho mình và những thế hệ sau. Thay vì công nhận ý nghĩa thiêng liêng đó, CSVN và những người thiên cộng gán ghép NVHN là vẫn còn điên rồ mơ tưởng đào lại xương cốt của quốc gia VNCH vì hận thù thua trận và mưu đồ phục quốc.

2. Lá cờ vàng là biểu tượng xác nhận bản sắc trong hiện tại để phân biệt NVHN chống cộng với các thành phần xã hội khác:
Ngoài việc ghi nhận ký ức xã hội, lá cờ vàng còn là biểu tượng xác nhận bản sắc (identity) của cộng đồng NVHN chống cộng và yêu chuộng tự do dân chủ. Chuyện đó có ý nghĩa gì không? Đương nhiên là có. Tại sao NVHN, sinh sống tản mác khắp nơi trên địa cẩu, không có một khối lãnh đạo trung ương, mà chọn cùng một biểu tượng xác nhận bản sắc và dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ? Trong bất kỳ một cuộc hội họp nào của NVHN, một cuộc biểu tình, quyên tiền, văn nghệ, mừng lễ, Tết, ở khắp nơi trên thế giới, họ đều dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ.

Tại sao họ không dùng một biểu tượng hình ảnh khác, phản ảnh ý nghĩa của cộng đồng NVHN tị nạn và hòa bình, như hình ảnh một con chim bồ câu bay trên toàn địa cầu và đất nước Viêt Nam, hoặc con tàu chở thuyền nhân, hoặc bất kỳ một biểu tượng có ý nghĩa sâu sắc nào khác?

Câu trả lời thật đơn giản. Đó là vì lá cờ vàng ba sọc đỏ trong thời Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH, ngoài chuyện là biểu tượng quốc gia, còn là biểu tượng cho nhiều ý nghĩa thiết tha với NVHN, gồm có tự do, dân chủ, chống cộng và đoàn kết.

Quốc gia Việt Nam từ thời Đệ Nhất đến Đệ Nhị Cộng Hòa đều có tinh thần chống cộng tích cực, và cả hai chính thể đều tôn trọng tự do dân chủ. Tuy không hoàn hảo, cả hai chính thể đều hướng đến con đường tự do dân chủ. Ta nên chú ý rằng ta không thể phán xét chế độ VNCH trong các thập niên 1950, 1960, và nửa thập niên đầu 1970 dùng tiêu chuẩn hiện đại.

Về khía cạnh đoàn kết, tuy có nhiều giải thích cho ý nghĩa của màu vàng và ba vạch đỏ, ý nghĩa thông thường nhất là màu vàng tượng trưng cho màu da, màu đỏ tượng trưng cho màu máu. Do đó mới có câu "da vàng máu đỏ." Ba vạch tượng trưng cho ba miền Bắc Trung Nam. Tôi sẽ không đi sâu thêm về ý nghĩa hình ảnh lá cờ, nhưng có điểm tôi muốn nhấn mạnh là trái với nhiều người cho rằng ba vạch đỏ nói lên đường lối "chia để trị" của Pháp thời Pháp thuộc và do đó có ý nghĩa chia rẽ, ba vạch đỏ tượng trưng cho tình đoàn kết sâu đậm nhất của dân Việt Nam vì nó nói lên sự khác biệt của dân tộc Việt nhưng vẫn đoàn kết yêu thương nhau trên cùng lãnh thổ.

Với một biểu tượng sẵn có như vậy, NVHN không ngần ngại dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng xác nhận bản sắc. Cái bản sắc đó giúp họ phân biệt được các thành phần xã hội khác, như các đoàn thể thân cộng, các nhóm đến từ Việt Nam tạm thời, và các tổ chức, đoàn thể địa phương của xứ sở họ cư ngụ. Một lần nữa, giống như biểu tượng về ký ức xã hội, ý nghĩa của biểu tượng này không dính líu gì đến quốc gia VNCH đã mất, nhưng sự khác biệt rất tinh tế, và nhiều khi chỉ được cảm nhận trong tiềm thức.

Cái biểu tượng xác nhận bản sắc này được thể hiện qua những nỗ lực của NVHN để "củng cố biên giới lâu dài của cộng đồng" (Aguilar-San Juan 2009, 131) và "để khẳng định sự hiện diện của họ" (Aguilar-San Juan 2009, 88) trong cộng đồng họ vì sự vắng mặt của những tường thuật hay bình luận về sự đóng góp của miền Nam Việt Nam trong chiến tranh Việt Nam, nhất là tại Hoa Kỳ (sđd.). Sự khẳng định hiện diện đó được biểu thị qua các hội lễ, Tết, diễn hành, biểu tình, họp mặt cộng đồng khi lá cờ vàng ba sọc đỏ phô trương nổi bật. Các cơ sở thương mại, quán ăn, nhà hàng, đường xá trong cộng đồng cắm cờ vàng ba sọc đỏ khắp nơi. Tất cả những biểu tượng này xác nhận bản sắc của cộng đồng NVHN tại vùng địa phương nơi họ cư trú.

Cái biểu tượng xác nhận bản sắc đó không những được thúc đẩy bởi các tổ chức, đoàn thể, NVHN trong cộng đồng, mà còn được công nhận bởi các cơ quan chính quyền địa phương của xứ sở nơi NVHN cư ngụ. Thí dụ, tại Hoa Kỳ, từ tháng hai năm 2003 tới tháng 12 năm 2009 đã có 9 tiểu bang, 3 quận hạt, vả 77 thành phố ra nghị quyết công nhận lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ tự do và di sản (Freedom and Heritage Flag) của cộng đồng NVHN (quockyvietnam). Con số này còn gia tăng hơn nữa trong vài năm gần đây.

3. Lá cờ vàng là biểu tượng cho ý chí quật cường, tinh thần tư do dân chủ, và tình yêu thương đồng bào thiết tha:
Ngoài biểu tượng cho ký ức và xác nhận bản sắc, lá cờ vàng còn là biểu tượng cho một hình ảnh vĩ đại, oai hùng, và tráng lệ hơn. Đó là tinh thần dân tộc, ý chí quật cường, trí thông minh, lòng can đảm, nhân bản, tinh thần yêu chuộng tự do dân chủ, thiết tha với đất nước và đồng bào Việt Nam.

Đến xứ lạ quê người, kém cỏi ngôn ngữ, NVHN đã vượt qua biết bao nhiêu khó khăn trong cuộc sống, để đạt thành công. Những thành quả của NVHN đã được biết rõ. NVHN đã đóng góp biết bao cho sự tiến bộ nhân loại trên mọi lãnh vực: khoa học, văn học, luật pháp, chính trị, quân sự, nghệ thuật, xã hội học, y khoa, kinh tế, v.v... Tại Hoa Kỳ, biết bao nhiêu NVHN đã thành công rực rỡ trên thương trường, thành lập công ty xí nghiệp với tổng thu nhập hàng trăm triệu đô la Mỹ mỗi năm. Đại học Mỹ đào tạo hàng vạn NVHN với bằng cấp bác sĩ, nha sĩ, dược sĩ, luật sư, kỹ sư, tiến sĩ đủ ngành. Hàng ngàn NVHN có tên là người phát minh trên hàng vạn bằng sáng chế cấp bởi Văn Phòng Bằng Sáng Chế vả Thương Hiệu Hoa kỳ. Con cháu họ rất xuất sắc trong hầu như tất cả các lĩnh vực, bao gồm cả kinh doanh, khoa học và công nghệ, pháp luật, giáo dục, nghệ thuật, dịch vụ cộng đồng, và nhiều ngành khác. Các em học sinh con cháu NVHN học hành xuất sắc đến độ "thành tích học tập của các học sinh Việt Nam ở Mỹ gần như là huyền thoại" (Freeman 1995, 69). Trong một nghiên cứu về thành tích học tập của học sinh trung học người Mỹ gốc Việt tại một khu học chánh trong quận Orange, California, Saito (2002, 6) báo cáo rằng học sinh Việt Nam có được tỷ lệ ra trường thủ khoa cao nhất trong năm 1997 trong mọi sắc dân (kể cả Mỹ trắng). Những nghiên cứu tương tự như nghiên cứu của Saito đã dẫn đến định kiến về NVHN là những người nhập cư kiểu mẫu, cái "hội chứng thủ khoa Việt." NVHN ở các quốc gia khác cũng có những thành đạt tương tự.

Trong những cuộc hội họp vinh danh những thành công của NVHN, lễ trao giải thưởng các học sinh xuất sắc, những chương trình văn nghệ thiện nguyện quyên tiền gửi về Việt Nam giúp người nghèo, nạn nhân, thương phế binh, lá cờ vàng ba sọc đỏ luôn luôn được trưng bày. Võ sĩ Phan Nam và Lê Cung thường mang lá cờ vàng ba sọc đỏ lên võ đài, biểu dương tính chất hùng mạnh của dân Việt. Tướng Lương Xuân Việt của quân đội Hoa Kỳ từng khoác lá cờ vàng trong dịp văn nghệ cộng đồng. NVHN còn có tình tha thiết yêu thương đồng bào trong nước. Ngoài các cuộc văn nghệ quyên tiền, các hội họp đoàn thể từ thiện, NVHN gửi tiền về cho thân nhân, quyến thuộc, bạn bè hàng năm lên đến 10 tỷ đô la Mỹ. Ngoài ra, NVHN tích cực tranh đấu cho nhân quyền, tự do dân chủ cho Việt Nam. Trong những cuộc diễn hành, biểu tình tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam, lá cờ vàng luôn luôn được phô trương nổi bật.

Tinh thần yêu chuộng tự do dân chủ còn được biểu hiện là ý muốn tiếp tục và phát huy một nền tự do dân chủ đã có nền tảng trong hai thời Đệ Nhất và Đệ Nhị VNCH từ năm 1954 đến năm 1975 tại miền Nam Việt Nam. Tuy nhiên, như ̣trình bày ở trên, tiếp tục phát huy tinh thần tự do dân chủ thiết lập từ thời VNCH không có nghĩa là khôi phục lại quốc gia VNCH với nguyên trạng ở năm 1975. Sự khác biệt rất tinh tế nhưng quan trọng.

Do đó, lá cờ vàng không những là biểu tượng cho ký ức và xác nhận bản sắc, mà còn cho tinh thần dân tộc, ý muốn phát huy tự do dân chủ cho Việt Nam trong tương lai, và tình yêu thương đồng bào của người Việt.

B. Lá cờ vàng dưới mắt CSVN và dân trong nước Việt Nam:
Trong khi NVHN coi lá cờ vàng là biểu tượng cao quý cho di sản, bản sắc, và ý chí của người Việt sống ngoài nước Việt Nam, CSVN tự đặt ra những lý thuyết, diễn giải của họ về ý nghĩa của lá cờ vàng ba sọc đỏ với ý định nham hiểm nhằm triệt hạ uy tín và chia rẽ cộng đồng NVHN, và tránh ảnh hưởng của NVHN vào trí óc và tâm hồn dân Việt trong nước

1. CSVN cố hủy hoại hình ảnh lá cờ vàng bằng cách giải thích NVHN duy trì cờ vàng là do hận thù thua trận:
CSVN và những người thiên cộng thường rêu rao cờ vàng ba sọc đỏ là cờ của nước VNCH và vì nước VNCH không còn nữa, nên lá cờ đó vô giá trị. Ngoài ra, sự duy trì cờ vàng của NVHN là do bởi lòng hận thù vì thua trận. Những lời rêu rao như vậy vừa sai lầm vừa có ý định hiểm ác.

Sai lầm là vì họ không hiểu ý nghĩa của một lá cờ. Như đã trình bày ở trên, NVHN dùng lá cờ vàng ba sọc đỏ không phải để tượng trưng cho quốc gia VNCH hiện hữu trước năm 1975, mà để tượng trưng cho cộng đồng NVHN chống cộng sản. Với nhiều người, lá cờ đó còn tượng trưng cho chính thể VNCH, nhưng tượng trưng cho một chính thể không có nghĩa là tượng trưng cho quốc gia có chính thể đó. NVHN vẫn có thể dùng một biểu tượng khác, nhưng tại sao phải dùng một biểu tượng khác khi họ đã có sẵn một biểu tượng của chính nghĩa, tự do, dân chủ?

Một cách ngu xuẩn, khi CSVN và những người thiên cộng rêu rao như vậy, họ đã mặc nhiên phủ nhận giá trị của chính lá cờ của họ trước năm 1945, hoặc lá cờ Mặt Trận Giải Phóng Miền Nam (MTGPMN) trong chiến tranh Việt Nam. Đó là không kể MTGPMN chưa từng bao giờ leo lên hàng quốc gia. Theo lý luận họ, một lá cờ không có giá trị nếu nó không đại diện một quốc gia. Nếu thế, chính lá cờ đỏ sao vàng của Việt Minh cũng vô giá trị, vì nó không đại diện một quốc gia trước năm 1945. Nếu nó vô giá trị trước năm 1945, thì tại sao nó lại được CSVN coi là quốc kỳ, với chút sửa đổi, của nước Việt Nam năm 2014? Nếu họ chấp nhận chuyện đó, và cho dù lá cờ vàng ba sọc đỏ không đại diện cho một quốc gia vào năm 2014, tại sao họ không chấp nhận chuyện lá cờ vàng ba sọc đỏ sẽ là quốc kỳ của nước Việt Nam năm 2015, 2016, 2018? Đó là không kể cờ đỏ sao vàng của Việt Minh trước năm 1945 chưa từng là quốc kỳ của một quốc gia, trong khi cờ vàng ba sọc đỏ đã từng là quốc kỳ của một quốc gia trong suốt mấy chục năm.

Do đó cái lý luận cờ vàng ba sọc đỏ không có giá trị vì nó không đại diện cho một quốc gia đang hiện hữu là một lý luận ngu xuẩn.

Lý luận đó còn hiểm ác vì nó có tính chất lừa đảo và lấp liếm cho tội ác chiến tranh, xâm lược, và cướp đất của đảng cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) và tà quyền của họ. Bằng cách liên kết cờ vàng của NVHN với quốc gia VNCH, CSVN và những người thiên cộng vẽ ra hình ảnh cộng đồng NVHN là những quân nhân cán chính, hoặc con cháu họ, của chính quyền VNCH chứa chất hận thù vì thua trận, vì mất quốc gia VNCH.

NVHN hẳn nhiên không ưa, hoặc ghét, chế độ cộng sản đang hoành hành tại Việt Nam. Nhưng không ưa hoặc ghét không bắt buộc là chỉ do bởi hận thù. Giả sử người Việt trong nước khám phá ra NVHN đang dậy dỗ con cháu họ là Tổng thống Ngô Đình Diệm đoạt giải Nobel về văn chương. Họ có ghét không? Họ có muốn tranh đấu để cho con cháu NVHN biết được sự thật và không làm trò cười cho thiên hạ không? Cái đó là do hận thù hay sao?

NVHN tranh đấu để đem tự do dân chủ cho dân Việt tại Việt Nam, đem sự thật về cho lịch sử Việt Nam, để không cho CSVN tuyên truyền, nhồi sọ tuổi trẻ, tung ra những tin tức bịa đặt như Hồ Chí Minh là danh nhân văn hóa thế giới, Võ Nguyên Giáp là thiên tài quân sự, trận Điên Biên Phủ sánh ngang với trận Bạch Đằng, Đống Đa, v.v..., khiến cho tuổi trẻ Việt Nam tưởng thật, khi đi ra nước ngoài, làm trò cười cho thiên hạ, hoặc có sự kính nể sai lầm về các tội nhân của dân tộc, và suy đồi trí tuệ độc lập. Đó là không kể biết bao nhiêu chuyện xuẩn ngốc, lừa đảo, hiểm ác, làm băng hoại tâm hồn người dân Việt, hãm hiếp trí óc trẻ em, tiêu hủy một nền văn hóa sáng chói, tra tấn thế hệ này qua thế hệ khác, làm suy đồi ý chí bất khuất của dân Việt.

Một số NVHN cũng có thể hận thù cộng sản, nhưng lý do hận thù không phải vì thua trận, vì mất nước VNCH, mà là vì ghê tởm chính sách tàn bạo của tà quyền cộng sản đàn áp dân Việt Nam trong khi hèn nhát với quan thầy Tàu cộng. CSVN và những người thân cộng không có lòng nhân bản, không biết yêu thương đồng bào, không có tinh thần hiệp sĩ. Họ chỉ biết hận thù chém giết. Họ không hiểu tại sao có những người sẵn sàng hy sinh tính mạng mình để cứu vớt những người xa lạ trong cơn hoạn nạn. Họ không hiểu tại sao có những người có cuộc sống vật chất sung sướng mà lại lao đầu vào chuyện đấu tranh cho tự do dân chủ. Vì không hiểu, hoặc hiểu nhưng làm như không hiểu, họ tìm những lý do tiêu cực nhất, xấu xa nhất, dựa vào bản chất họ, để giải thích những hành động cao cả, thương yêu đồng bào, của NVHN với mục đích chia rẽ và làm suy yếu ảnh hưởng NVHN trên người dân Việt Nam trong nước. Mặt khác, cũng với đầu óc hiểm độc, ích kỷ, và dốt nát, họ tìm đủ mọi lý do tích cực nhất, nhiều khi phải bịa đặt sự việc, để suy tôn họ và chủ nghĩa họ. Họ hoan hô những người hy sinh tánh mạng trong lúc phục vụ họ và phong những người này là liệt sĩ. Họ vỗ tay đón chào thiểu số NVHN trở về Việt Nam trong tinh thần nghị quyết 36, và gọi những người này là những người con tổ quốc.

Trên thực tế, NVHN chống cộng không vì hận thù thua trận. Số quân nhân cán chính của chính quyền VNCH còn sót lại hiện nay tại hải ngoại chỉ là một thiểu số trong cộng đồng NVHN. Ngay từ lúc đầu, số người này không nhiều lắm. Trong đợt thoát khỏi Việt Nam năm 1975, chỉ có khoảng 140 ngàn người, trong đó số quân nhân cán chính của VNCH cao lắm là độ một nửa. Phần còn lại là vợ con, cha mẹ già, trẻ em, sinh viên, học sinh, và những người dân thường. Số thuyền nhân còn có ít quân nhân cán chính VNCH hơn nữa, vì đa số là đàn bà trẻ em, hoặc dân thường người Việt gốc Hoa. Sau bốn mươi năm, những quân nhân cán chính của chính thể VNCH đã lớn tuổi, qua đời, hoặc về hưu trí. Hiện nay số NVHN lên tới 4 triệu người trên khắp thế giới. Trong số đó, còn bao nhiêu người quân nhân cán chính VNCH? Và trong số những người này có bao nhiêu người hận thù vì lý do thua trận?

Thế hệ một rưỡi và thế hệ thứ nhì, một phần ngày càng rộng lớn trong cộng đồng NVHN, sinh sống trên vùng trời tự do từ lúc còn nhỏ, biết rất ít về chiến tranh Việt Nam, và nhiều khi không có trí nhớ hoặc khái niệm gì về nước Việt Nam. Quan trọng hơn, những người trong thế hệ này sinh trưởng trên đất nước tự do dân chủ, nên họ không dễ dàng bị nhồi sọ hoặc tuyên truyền hận thù từ cha mẹ ông bà họ.

CSVN và những người thiên cộng suy bụng ta ra bụng người, cho rằng con cháu quân nhân cán chính VNCH bị ảnh hưởng cha mẹ ông bà nên có lòng hận thù cộng sản. CSVN không có một chút khái niệm gì về cuộc sống gia đình và xã hội trong thể chế tự do dân chủ, nơi mà cha mẹ con cái có sự tôn trọng lẫn nhau. Họ không thể nào tưởng tượng được cha mẹ ông bà trong cộng đồng NVHN sẵn sàng dẹp qua uy quyền bậc cha mẹ để tranh luận với con cái trong tinh thần tự do dân chủ, hoặc để cho con cháu tự do tìm tòi, phát huy tư tưởng độc lập. Bằng cách tự tìm hiểu cho kiến thức mình và học hỏi từ những người có kinh nghiệm, các thế hệ sau của NVHN nỗ lực chống cộng sản và tranh đấu cho tự do dân chủ tại Việt Nam không phải vì hận thù thua trận, mà vì lòng thương yêu đồng bào sống trong cảnh đọa đầy dưới chế độ cộng sản và lòng yêu nước Việt Nam.

CSVN và những người thiên cộng sẽ chống chế và nói, "Chúng tôi nói hận thù, chứ chúng tôi đâu có nói hận thù vì lý do thua trận?" Họ là những người ăn nói xảo quyệt. Nếu đúng là họ không ngụ ý hận thù vì lý do thua trận, thì vì lý do nào? Vì lý do ganh ghét cuộc sống vật chất? Hoàn toàn sai lầm. Thu nhập gia đình hàng năm của người Mỹ gốc Việt là khoảng $59.000 đô la Mỹ (Census 2010). Với khoảng 1.8 triệu người Mỹ gốc Việt và trung bình 3.85 người trong một gia đình, con số này khoảng 27 tỉ đô la Mỹ. Đó chỉ là ở Hoa Kỳ mà thôi. Nếu kể tất cả NVHN trên toàn thế giới với 4 triệu dân số NVHN (Wikipedia 2014c), con số này it nhất là khoảng 50 tỉ đô la Mỹ. Giả sử Gross Domestic Product (GDP) cao hơn thu nhập cá nhân khoảng 10%, con số này tương đương với 55 tỉ đô la Mỹ GDP, gần bằng nửa GDP của toàn thể nước Việt Nam. Với cuộc sống vật chất như vậy, làm sao mà NVHN có lòng ganh ghét? Đó là không kể hàng năm NVHN gửi về Việt Nam khoảng 10 tỷ đô la Mỹ. Còn lý do hận thù nào khác? Vì cộng sản tàn ác, hèn với giặc và ác với dân? Nếu vậy thì hận thù có gì sai đâu? (Đặng 2014).

Nhiều người, không biết vô tình hay cố ý, đưa ra những lời ngụ ý, bóng gió, như "...có bao nhiêu người tưởng nhớ, tiếc nuối cờ vàng, và bao nhiêu người xem cờ vàng là cờ thua trận... Còn lại lớp trẻ, hầu hết, dưới mái trường XHCN cờ vàng là cờ thua trận, thất bại của một quốc gia. Điều này do tác động bởi chính sách nhồi sọ của CS, nhưng không thể chối cãi đó là sự thật của lịch sử mà không ai có thể phủ nhận" (Trần 2014). Nhắc nhở đến việc thua trận trong nội dung hận thù, rõ ràng ám chỉ cuộc đấu tranh của NVHN cho tự do dân chủ tại Việt Nam được thúc đẩy bởi lòng hận thù vì thua trận.

Còn gì ngu xuẩn và hiểm ác hơn?

2. CSVN lo sợ ảnh hưởng lớn mạnh của lá cờ vàng nên sẵn sàng tiêu diệt cờ vàng bằng mọi cách, kể cả dùng chiến thuật kamikaze:

CSVN và những người thiên cộng còn có một kế hoạch hiểm độc, nhưng lộ ra nỗi lo lắng, sợ hãi, và tuyệt vọng. Đó là kế hoạch kamikaze, được dùng bởi phi công Nhật lao vào hàng không mẫu hạm Hoa Kỳ trong thế chiến thứ hai.

Chiêu này thực hiện thế nào?
Đó là cách để cờ đỏ cùng chết với cờ vàng, như hy sinh những chiếc máy bay nhỏ để làm chìm các chiến hạm.

Với CSVN, sự sống còn của cờ đỏ không quan trọng bằng sức mạnh đang vùng lên của cờ vàng. Do đó, họ sẵn sàng đồng ý dẹp cờ đỏ miễn là cờ vàng cũng phải bị dẹp theo, và thay bằng cờ khác. Không có gì sai với chuyện dùng cờ khác, không phải cờ đỏ hoặc cờ vàng, để làm quốc kỳ cho Việt Nam. Nhưng chuyện đó phải được quyết định bởi toàn dân Việt Nam trong một cuộc trưng cầu dân ý hoặc qua các phương pháp dân chủ tự do. Chuyện đó không thể được thực hiện bởi cộng sản. Đối với CSVN, lá cờ không có ý nghĩa. Không đỏ thì xanh, vàng, trắng. Có sao đâu, miễn là họ vẫn nắm quyền. Nhưng cái lợi to tát cho việc trao đổi đó là họ tiêu diệt được cái biểu tượng của NVHN, và làm suy yếu tinh thần đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam.

Có những người, không hiểu vì ngây thơ chính trị, hoặc kém hiểu biết, hoặc có ý tưởng suy nhược, hoặc thiên cộng tung ra ý kiến dọ dẫm, với những lời dụ dỗ hòa giải. Họ nói, "Chắc chắn cờ đỏ không bao giờ là biểu tượng cho tự do dân chủ, nó sẽ bị đào thải ngay khi đất nước thành công, nhưng cờ vàng chưa là mẫu số chung của cả 2 bên, nó còn phải chờ cuộc biểu quyết toàn dân sau này" (Trần 2014), đi theo sau "Câu hỏi? Liệu lá cờ vàng có thể tung bay trở lại trên mãnh đất VN hình chữ S hay không?... Câu trả lời: Không" (Trần 2014).

Một cách lạ lùng, trong khi quả quyết là cờ đỏ sẽ chết khi cuộc tranh đấu thành công, và cờ vàng chỉ được tôn trọng bởi NVHN và bị dị ứng, vì sai lầm, bởi người Việt trong nước, họ lại không đề ra giải pháp dễ dàng và chính đáng nhất là sửa lại cái dị ứng sai lầm đó để toàn thể dân Việt, hải ngoại và trong nước, cùng tôn trọng cờ vàng trong việc đấu tranh cho tự do dân chủ. Thay vì vậy, họ quả quyết cờ vàng không thể nào tung bay trên lãnh thổ Việt Nam, và do đó cả cờ vàng và cờ đỏ đều chết.

Đây có phải là chiến thuật kamikaze hay không?

Lý do chính đáng để sửa chữa dị ứng sai lầm của dân Việt trong nước về cờ vàng là cái gì sai lầm thì ta nên sửa chữa. Trong giai đoạn đấu tranh hiện tại, ta lại càng nên thúc đẩy chuyện đó mạnh hơn bằng cách kêu gọi dân Việt trong nước phát động phong trào giương cờ vàng trong nước.

3. Tại sao người Việt trong nước nên cổ xúy việc giương lá cờ vàng ba sọc đỏ ngay trong nước?
Mới thoạt nghe, việc người Việt trong nước cổ xúy cho lá cờ vàng ba sọc đỏ bay trong nước Việt Nam có vẻ là chuyện hoang đường, nhưng thực ra đó là một hành động khôn ngoan nhất, biểu lộ tình yêu thương đồng bào và quê hương của người Việt trong nước, và gửi thông điệp mạnh mẽ cho tà quyền cộng sản, Tàu cộng, và ngay cả Hoa Kỳ, và thế giới về sức mạnh đoàn kết của dân tộc Việt.

Đương nhiên, CSVN sẽ không chấp nhận chuyện đó. Với các điều luật rừng rú, họ sẽ bắt bớ, giam cầm những người giương cờ vàng với lý do mưu đồ lật đổ tà quyền. Tuy nhiên, điều đó chứng tỏ chính họ mới là người có lòng hận thù. Tôi không có ý định xúi ḍại người Việt trong nước vác lá cờ vàng ba sọc đỏ đi nghênh ngang trong thành phố. Có nhiều cách biểu hiện lá cờ vàng ba sọc đỏ. Thí dụ như thiết kế nghệ thuật biểu tượng đó trên mũ, áo, quần, xe, nhà, v.v... Người Việt có rất nhiều sáng kiến. Họ dư sức nghĩ ra cách để người Việt trong nước bày tỏ sự hỗ trợ cờ vàng mà không bị tà quyền bắt bớ hoặc làm khó dễ.

CSVN và những người thiên cộng nghĩ rằng người dân Việt Nam không biết gì về VNCH và lá cờ vàng ba sọc đỏ, hoặc nếu có biết thì chỉ khinh thường lá cờ vàng ba sọc đỏ. Ý nghĩ hoặc lối lý luận này thật ngu xuẩn và hiểm ác cùng cực.

Trước hết, CSVN và những người thiên cộng/ngây thơ cho rằng cờ vàng có giá trị rất ít tại Việt Nam. Có người còn khẳng định "như vậy cờ vàng có giá trị bao nhiêu ở trong nước, cao lắm 1% do những người lớn tuổi còn tồn tại. Phần đông là dị ứng." (Trần 2014). Con số 1% này không có cơ sở và chỉ là một con số vô nghĩa. Tuy chưa có một thống kê chính thức cho biết số phần trăm dân Việt trong nước ủng hộ cờ vàng (CSVN chắc chắn sẽ không dám tìm hiểu chuyện đó), ta có thể ước đoán con số này vượt quá con số 1% như sau.
Với khoảng 25 triêu dân sống trong chính thể VNCH vào năm 1975 (Wikipedia 2014a ước lượng 19,582,000 cho miền Nam vào năm 1974; Wikipedia 2014b ước lượng 49.896.000 cho toàn thể Việt Nam vào năm 1975; và ta biết dân miền Nam đông hơn dân miền Bắc), và ước lượng khoảng 50% là dân ở tuổi 10-40 tuổi, hoặc 12,5 triệu, là lứa tuổi sống dưới thời VNCH, và thường trung thành với chính thể VNCH. Sau 40 năm, ta có thể giảm thiểu số phần trăm này 30% thêm vì chết, thoát khỏi Việt Nam, hoặc di dân qua các xứ khác. Với những ước lượng này, lứa tuổi 10-40 ở năm 1975 thành lứa tuổi 50-80 hiện nay, và tổng cộng khoảng 8,75 triệu, tức khoảng 10% dân số Việt Nam hiện nay.

Con số dân Việt trong nước ủng hộ cờ vàng thực ra còn cao hơn con số này rất nhiều. Con số 8,75 triệu, hoặc 10% dân số, tiêu biểu cho dân số cốt lõi trung thành với cờ vàng. (Sẽ có người nói không phải ai sống dưới cờ vàng cũng trung thành với cờ vàng, nhưng ta cũng có thể nói không phải ai sống dưới cờ đỏ cũng trung thành với cờ đỏ, và ta có thể coi hai lực này triệt tiêu nhau.) Trong cuộc sống gia đình tại Việt Nam, ảnh hưởng của cha mẹ ông bà rất mạnh, thường là mạnh rất nhiều hơn ảnh hưởng trường học. Do đó, tuy sau 1975, có nhiều người hấp thụ nền giáo dục nhồi sọ tuyên truyền của cộng sản, ảnh hưởng đó bị triệt tiêu hoặc giảm thiểu bởi gia đình của số 8,75 triệu dân trung thành với VNCH. Ta không rõ con số chính xác của hậu duệ 8,75 triệu người này là bao nhiêu, và trong số hậu duệ này, bao nhiêu người chịu ảnh hưởng nặng của gia đình để vẫn còn trung thành với cờ vàng. Tôi chỉ ước lượng một con số khiêm tốn 1,25 triệu để làm chẵn 10 triệu, tức khoảng 11% tổng số dân số hiện nay. Đó là tôi không kể số người dân miền Bắc và miền Nam sinh sau, ghét bỏ chế độ cộng sản.

Mười triệu dân, hoặc 11%, là một lực lượng đáng kể, dư sức lật đổ một chế độ.

Thứ nhì, CSVN và những người thiên cộng/ngây thơ khinh thường dân Việt Nam trong nước quá độ. Họ cho rằng dân Việt trong nước là những con cừu non, không biết suy luận hoặc tìm tòi, không biết dùng sức mạnh của Internet và các phương tiện truyền thông xã hội để học hỏi và phanh phui những lừa đảo của tà quyền cộng sản. Đúng, chỉ có một số it người biết dùng Internet vượt tường lửa và các phương tiện truyền thông xã hội. Nhưng đây là những tinh túy của đất nước Việt Nam, đây là những lãnh tụ tương lai của nước Việt Nam tự do dân chủ, đây là những người có tài năng và lòng can đảm để đứng lên hướng dẫn cuộc nổi dậy, và họ dư sức cổ võ và huy động một lực lượng đáng kể để thực hiện mục tiêu họ. Những người này hiểu được tâm địa ác hiểm của CSVN trong việc tuyên truyền, phỉ báng, nói xấu VNCH và lá cờ vàng ba sọc đỏ. Họ thừa biết chỗ đứng của lá cờ vàng ba sọc đỏ trong lịch sử. Họ thừa biết ý nghĩa phản bội tổ quốc của cờ đỏ. Họ thừa biết hàng triệu NVHN, tuy có cuộc sống vật chất thong thả ở các xứ tự do, lúc nào cũng nghĩ đến họ và tương lai quê hương và miệt mài tranh đấu cho sự sống còn của dân tộc và quê hương. Cho dù con số 1% là đúng, con số này tượng trưng một sức mạnh vĩ đại. Thực ra, với dân số 90 triệu dân, chỉ cần một phần ngàn hoặc một phần vạn cũng đủ khuynh đảo được chế độ. Trên thực tế, như tôi ước lượng ở trên, chúng ta có 11%, tức 10 triệu người.

Người dân Việt trong nước hiểu giá trị cờ vàng và họ biết cộng đồng NVHN gồm có những bộ óc thông minh, làm việc cần cù, và lòng thương yêu đồng bào quê hương vô bờ. Họ hiểu cộng đồng NVHN có những đóng góp to tát cho xứ họ cư ngụ, đã khiến dân trong xứ họ cư ngụ kính nể người Việt Nam và đem lại vinh quang cho Việt Nam gấp trăm gấp ngàn lần tà quyền cộng sản đang làm. Cộng đồng đó đã cho ra một Ngô Thanh Hải, một Lương Xuân Việt, một Janet Nguyễn, một Dương Nguyệt Ánh, và hàng ngàn người thành công rực rỡ trên mọi lãnh vực khắp nơi trên thế giới. Lý do gì mà một cộng đồng đầy rẫy những nhân tài như vậy chọn lá cờ vàng ba sọc đỏ là lá cờ biểu tượng cho cộng đồng họ?

CSVN hoặc những người thiên cộng/ ngây thơ còn đưa ra những lý luận trẻ con, thí dụ như "Thanh niên học sinh, họ lớn lên dưới cờ đỏ, dị ứng với cờ vàng, không lẽ họ không được yêu nước, mà yêu nước không có nghĩa là phải chấp nhận cờ vàng, phải chấp nhận VNCH, sao giống yêu CHXH quá vậy?" (Trần 2014). Tại sao họ không đặt câu hỏi đó vào năm 1975 khi hàng triệu thanh niên học sinh miền Nam, lớn lên dưới cờ vàng, dị ứng với cờ đỏ, không lẽ họ không được yêu nước, mà yêu nước không có nghĩa là phải chấp nhận cờ đỏ, phải chấp nhận CHXH. Nếu chuyện đó là sai lầm, thì nó sai lầm vào năm 1975 và cả mấy chục năm sau đó. Do đó, cái dị ứng cờ vàng, cho là có thật, là một dị ứng dựa trên căn bản sai lầm. Vì vậy, gỉải pháp là sửa đổi cái dị ứng sai lầm đó, chứ không phải dùng cái sai lầm đó để chỉ trích một sai lầm khác. Quan trọng hơn, lời cáo buộc đó là lời xuyên tạc, vì NVHN không hề bắt buộc người dân Việt Nam trong nước phải chấp nhận cờ vàng. NVHN chỉ vạch ra giá trị lịch sử của cờ vàng, và ý nghĩa phản trắc của cờ đỏ. NVHN cũng không hề bắt buộc ai phải tôn trọng cờ vàng. Nhưng cờ vàng là biểu tượng của cộng đồng NVHN, và do đó nếu ai muốn gia nhập vào cộng đồng NVHN, họ phải tôn trọng cái biểu tượng đó.

Tuy nhiên, dù NVHN không bắt buộc người Việt trong nước phải tôn trọng cờ vàng, người Việt trong nước cũng nên tự động có ý thức tôn trọng cờ vàng ba sọc đỏ. Có nhiều lý do cho việc này.

Trước hết, bằng cách tôn trọng cờ vàng ba sọc đỏ, người Việt trong nước biểu lộ tình nghĩa sâu đậm với cộng đồng NVHN. Họ hiểu lá cờ vàng ba sọc đỏ không phải là tượng trưng vật chất cho quốc gia VNCH trước năm 1975, cũng như tấm hình bà mẹ trên bàn thờ không phải tượng trưng cho xương cốt bà đã mục nát trong quan tài nằm sâu dưới lòng đất. Họ hiểu lá cờ vàng ba sọc đỏ của NVHN là biểu tượng cho quá khứ huy hoàng, cho bản sắc đặc thù, và cho tinh thần dân tộc, tự do dân chủ, nhân bản, trí tuệ thông minh, và lòng thương yêu đồng bào.

Bằng cách tuyên dương cờ vàng ba sọc đỏ, người Việt trong nước bày tỏ sự tôn trọng ý nghĩa của các biểu tượng đó, và lòng tri ân của họ cho những nỗ lực vô bờ của cộng đồng NVHN trong cuộc đấu tranh cho tự do dân chủ tại Việt Nam. Đó là lòng yêu thương lẫn nhau trong tinh thần "Bầu ơi thương lấy bí cùng" hoặc "chị ngã em nâng" đã hằn sâu trong tâm khảm dân Việt. Đây là lúc thuận lợi nhất để người Việt trong nước bày tỏ tinh thần đoàn kết với NVHN. Họ không nên chờ tới lúc một người Mỹ gốc Việt trở thành Tổng thống Hoa Kỳ rồi mới làm. Cái xác suất để một người Mỹ gốc Việt trở thành người quyền thế nhất trên thế giới càng ngày càng gia tăng. Thực ra, bằng cách hỗ trợ cờ vàng ngay ở trong nước, người Việt trong nước còn giúp NVHN một cách đắc lực trong việc tạo áp lực chính trị trên xứ sở nơi họ cư ngụ. Đó là vì người dân và các cơ sở chính trị địa phương và quốc gia đột nhiên ý thức được sức mạnh đoàn kết của dân Việt và của NVHN. Cộng đồng NVHN sẽ trở nên đoàn kết hơn và tích cực tham gia vào các hoạt động chính trị, bầu cử tại xứ sở họ cư ngụ.

Thứ nhì, bằng cách cổ xúy cho lá cờ vàng ba sọc đỏ trong nước, người Việt trong nước gửi một thông điệp hùng mạnh nhất cho đảng và nhà cầm quyền cộng sản là họ không phải là những con cừu non, chỉ biết cúi đầu ngoan ngoãn nghe mệnh lệnh của ĐCSVN. Quan trọng hơn, cái thông điệp đó còn làm run sợ Tàu cộng đang lăm le xâm chiếm Việt Nam qua mọi hình thức, từ chính trị, lãnh thổ, tới kinh tế, văn hóa. Không còn gì làm Tàu cộng run rẩy hơn khi những biểu tượng nền vàng ba sọc đỏ phủ ngập trời trên khắp đô thị, từ Hà Nội tới Sài Gòn. Hình ảnh đó còn oai hùng, lộng lẫy, vĩ đại, hoành tráng gấp trăm ngàn lần hình ảnh hàng ngàn sinh viên học sinh Hồng Kông dương dù biểu tình trên đường phố. Thế giới sẽ phải nghiêng mình ngả mũ trước sức mạnh đoàn kết thiêng liêng đó của dân tộc Việt Nam. Hoa Kỳ sẽ kinh hồn bạt vía khi thấy biểu tượng của đồng minh mà mình bỏ rơi ngày nào đã trở thành hùng mạnh.

C. Kết Luận:
Lá cờ vàng ba sọc đỏ của NVHN không là biểu tượng của quốc gia VNCH cho tới 1975 vì quốc gia VNCH đã không còn. Thay vì vậy, lá cờ vàng ba sọc đỏ là biểu tượng của NVHN cho ký ức trong quá khứ, bản sắc trong hiện tại, và tinh thần dân tộc, tự do dân chủ, trí tuệ, và lòng thương yêu đồng bào cho cuộc đấu tranh cho tương lai. Những người thuộc thế hệ đầu đã già, qua đời, hoặc về hưu. Đa số NVHN, kể cả những người thuộc thế hệ một rưỡi và thứ hai biết rất it về chiến tranh Việt Nam, không hề có lòng hận thù vì thua trận. NVHN thực sự thiết tha thương yêu đồng bào trong nước "điêu linh nơi quê nhà đang chìm đắm" như được diễn tả trong bài "Chuyến Đò Vĩ Tuyến" của nhạc sĩ Lam Phương.

Người Việt trong nước nên cổ xúy việc giương biểu tượng cờ vàng trong nước để biểu lộ tinh thần đoàn kết với NVHN và gửi một thông điệp mạnh mẽ cho tà quyền cộng sản, Tàu cộng, và thế giới về sức mạnh đoàn kết vĩ đại của dân tộc Việt.

Để kết thúc, tôi xin tặng độc giả đoạn thơ sau, trích từ bài thơ "Hẹn gặp nhau sưởi nắng Sài Gòn" (Cao-Đắc 2014b):

Khi cờ vàng tung bay gió thổi
Phất phơ trên thành thị nước non
Ta mỉm cười đón mưa Hà Nội
Hẹn gặp nhau sưởi nắng Sài Gòn.

(Hẹn gặp nhau sưởi nắng Sài Gòn - Cao-Đắc Tuấn)

CẢM TẠ
Tôi xin có lời cảm tạ bạn daubetangthuong đã có lời khích lệ tôi viết bài này.

Cao-Đắc Tuấn (Danlambaovn -
_____________________________________
Tài Liệu Tham Khảo:
Aguilar-San Juan, Karin. 2009. Little Saigons: Staying Vietnamese in America.The University of Minnesota Press, Minnesota, U.S.A.

Cao-Đắc, Tuấn. 2014a. Lửa Cháy Trong Mưa. Hellgate Press, Oregon, U.S.A.
_______. 2014b. Hẹn gặp nhau sưởi nắng Sài Gòn. 26-7-2014.
danlambaovn.blogspot.com/2014/07/hen-gap-nhau-suoi-nang-sai-gon.html
(truy cập 21-12-2014).
Census. 2010. The Vietnamese Population in the United States: 2010.
vasummit2011.org/docs/research/The%20Vietnamese%20Population%202010_July%202.2011.pdf
(truy cập 19-12-2014).
Council of Europe. 2005. The concept of “nation”. 13-12-2005.
assembly.coe.int/ASP/Doc/XrefViewHTML.asp?FileID=11332&Language=EN
(truy cập 20-12-2014).
Dân Nam. 2012. Những mốc lịch sừ quan trọng khởi từ thập niên 1940. Phần 12: Cờ Nào Mang Đầy Đủ Truyền Thống Quốc Gia Dân Tộc? 5-2012.
trinhanmedia.com/2012/10/nhung-moc-lich-su-quan-trong-khoi-tu.html
(truy cập 20-12-2014).
Đặng Chí Hùng. 2014. Hiệp lực hay chia rẽ. 16-12-2014.
baovecovang2012.wordpress.com/2014/12/16/hiep-luc-hay-chia-re-dang-chi-hung/
(truy cập 20-12-2014).
_______. 2013. Những sự thật cần phải biết (Phần 8) - Lịch sử lá cờ của dân tộc.Đăng 7-1-2013.
danlambaovn.blogspot.com/2013/06/nhung-su-that-can-phai-biet-phan-8-lich.html
(truy cập 18-12-2014).
Freeman, James M. 1995. Changing Identities: Vietnamese Americans, 1975-1995. Allyn and Bacon, Massachusetts, U.S.A.
quockyvietnam. Không rõ Ngày. Người Việt Quốc Gia tại các thành phố và tiểu bang vận động cho Nghị Quyết Vinh Danh Quốc Kỳ Việt Nam.
quockyvietnam.tripod.com/QuocKyVietNam.html
(truy cập 20-12-2014).
Saito, Lynne Tsuboi. 2002. Ethnic Identity and Motivation: Socio-cultural Achievement of Vietnamese-American Students. LFB Scholarly Publishing, New York, U.S.A.
Trần Duy Sơn. 2014. Hiệp lực đấu tranh. 16-12-2014.
danlambaovn.blogspot.com/2014/12/hiep-luc-au-tranh.html
(truy cập 20-12-2014).
Wikipedia. 2014a. South Vietnam. Thay đổi chót: 17-12-2014.
en.wikipedia.org/wiki/South_Vietnam#Demographics
(truy cập 21-12-2014).
_______. 2014b. Demographics of Vietnam. Thay đổi chót: 14-12-2014.
en.wikipedia.org/wiki/Demographics_of_Vietnam
_______. 2014c. Overseas Vietnamese. Thay đổi chót: 17-11-2014.
en.wikipedia.org/wiki/Overseas_Vietnamese (truy cập 19-12-2014).

© 2014 Cao-Đắc Tuấn

No comments:

Post a Comment