Sunday, August 23, 2015

• NHẤT HẠNH và "Ni Sư" Chân Không cùng hai con - Lê Thị Huệ


NHẤT HẠNH và "Ni Sư" Chân Không cùng hai con.
Lê Thị Huệ

Lê Thị Huệ: Có một điều tế nhị nhiều người không muốn nói, nhưng tôi nghĩ với những vấn đề của trí thức, nó chẳng phải là một điều gì ghê gớm.


Nhất Hạnh, con gái thứ Linh Giang (cưỡi ngựa), Cao Ngọc Phượng , Helen Huệ Liên, con gái đầu Phượng Nam
Sau nhà Võ Đình, Brunswick 1986


Có phải ông Nhất Hạnh muốn cách mạng Phật Giáo Việt Nam, có phải ông Nhất Hạnh đã yêu bà Chân Không và thăng hoa tình yêu ấy khi muốn Phật Giáo Việt Nam chấp nhận chuyện sư có vợ con. Với tôi, đây là một điều tốt cho tôn giáo của ông ấy. Tôi không phản đối điều này. Liệu có một sự thật nào đó trong câu chuyện này, hay đây chỉ là một lời đồn lừa dối.
Võ Văn Ái: Nói rằng ông Nhất Hạnh muốn cách mạng Phật giáo Việt Nam thì không đúng. Đại sư Thái Hư mới là người xứng danh và là nhân vật lịch sử của Phật giáo từ những năm đầu Dân quốc thế kỷ XX ở Trung quốc, khởi xướng cuộc tân vận động của Phật giáo cận đại và hiện đại. Trước Dân quốc, Tăng sĩ bị xã hội khinh rẻ vì thiếu học, chỉ lo việc cúng kiến, mê tín, nên Đại sư Thái Hư gióng lên cuộc cách mạng Phật giáo trên ba lĩnh vực cơ bản là Cách mạng Giáo lý – Cách mạng Giáo chế – Cách mạng Giáo sản trong hoàn cảnh bế tắc và tiêu trầm của Phật giáo Trung quốc.

Tư tưởng cách mạng này vượt biên cương chi phối toàn thể sinh hoạt Phật giáo từ Á sang Âu Mỹ. Nhờ những chuyến đi thuyết pháp của Đại sư Thái Hư mà các Hội Học Phật được thiết lập khắp Âu Mỹ Á đầu thế kỷ XX. Tại Việt Nam, Cư sĩ Lê Đình Thám cùng các Đại sư Phước Huệ, Trí Độ, v.v… do đọc sách của Thái Hư mà phát động Phong trào Chấn hưng Phật giáo Việt Nam từ thập niên 20 đầu thế kỷ XX lan truyền khắp Nam, Trung, Băc kỳ. Sự xuất hiện uy dũng của Phật giáo Việt Nam hai thập niên 50, 60, là thành quả của phong trào Chấn hưng Phật giáo gợi hứng từ công trình, công đức và công hạnh kỳ vĩ của Thái Hư Đại sư. Bản thân ông Nhất Hạnh có một số phát kiến canh tân Phật giáo sau thời gian du học ở Mỹ. Tôi nghĩ ông chịu ít nhiều ảnh hưởng từ giáo phái Tin Lành và thần học Paul Tillich trong các phát kiến của ông.

Tôi từng viết bài ca ngợi cuốn sách “Hiện đại hóa Phật giáo” của ông trên tạp san Hải Triều Âm ở Saigon giữa thập niên 60. Trái lại, Bùi Giáng thì chê Nhất Hạnh về cuốn sách này trong “Đi vào Cõi Thơ” do Ca Dao ấn hành, Saigon năm 1969, ở trang 63 như sau: “Nhất Hạnh có nguồn thơ chứa chan. Chúng ta không hiểu vì lẽ gì nguồn thơ đó lại không đủ sức ngăn cản ông, khiến ông hì hục hiện đại hóa Phật Giáo Uyên Nguyên. Trường hợp Nhất Hạnh là trường hợp một thi sỹ thiên tài bị vướng phải cạm bẫy của triết học Tây phương”. Từ năm 64, 65 tại Saigon, ông thiết lập dòng Tiếp Hiện cho phép người tu lập gia đình, phát triển trong giới Phật tử thuộc Trường Thanh niên Phụng sự Xã hội ở Phú Thọ Hoà. Trong giới thân cận ông có một người không đồng ý là Nhất Chi Mai, tức cô giáo Phan Thị Mai tự thiêu cho Hòa bình năm 1966. Tôi còn giữ bức thư thủ bút của cô ấy về sự bất đồng này.

Ông Nhất Hạnh dự tính công khai dòng Tiếp Hiện qua một cuộc họp báo ở Saigon, đưa Phạm Công Thiện làm người đầu đàn phát huy Dòng mới (thời gian này Phạm Công Thiện là Đại đức Thích Nguyên Tánh). Nhưng Phạm Công Thiện bỏ rơi cuộc họp báo rồi sau đi du học Mỹ, nên việc không thành. Khoảng năm 1967, thời ông đón bà Cao Ngọc Phuợng ở Việt Nam ra cùng sang ở Tokyo, nói là đi nghiên cứu “kinh tế hậu chiến”, ông viết thư cho tôi kèm cương lĩnh và giới luật Dòng Tiếp Hiện mong tôi tham gia thực hiện và phát triển dòng tu mới. Nhưng tôi không trả lời. 
Thực tế là vào giai đoạn giữa thập niên 60, ngoài Nhất Hạnh, tôi biết vài vị Tăng vai vế có khuynh hướng phát động phong trào Tân Tăng Nhật Bản tại Saigon, như cố Hoà thượng TMG là một. Nhưng sau vài thử nghiệm họ gặp phản ứng chống đối quá lớn của quần chúng Phật tử, nên phong trào vụt tắt. Sau này nhờ hoàn cảnh khách quan ở nước ngoài dễ phát triển hơn trong khung cảnh Làng Mai ở Pháp. Về giới Tân Tăng cho phép lấy vợ, thì Nhật Bản là nước tiên phong và có truyền thống từ thế kỷ XIII. Đọc truyện Kinkakuji của Yukio Mishima sẽ thấy bối cảnh của đời sống Tân Tăng này. Đại sư Thân Loan (Shiran, 1173-1262) tổ khai sáng Tịnh độ Chân tông Nhật bản (Jōdo-shinshū / Shin Buddhism), sau khi làm đệ tử ngài Pháp Nhiên (Hōnen) được Thầy cho phép lấy Ni cô Huệ Tín làm vợ, khởi nguồn cho chế độ Tăng lấy vợ của phái Chân tông Nhật bản. Hơn mười năm trước tôi đến thăm chùa Higashi Honganji (Đông Bản Nguyện tự) ở cố đô Kyoto là bản sơn của phái này.

Vị sư dẫn tôi đi thăm chùa giải thích rằng : “Thấp thoáng sau lưng các vị Sư có bóng người đàn bà. Tại sao không công khai hóa mà cứ giấu giấu diếm diếm ?”. Rồi ông thuật cho tôi nghe việc ra đời của phái Tân Tăng của ngài Thân Loan. Chuyến thăm ấy tôi còn chú ý tổ chức Nhân quyền của Tịnh độ Chân tông ngay trong ngôi bản tự này. Có đến 450 nhân viên túc trực. Họ lo cho nhân quyền của giới cùng đinh BurakuminNhật bản, khoảng 3 triệu người sống trong cảnh kỳ thị xã hội. Ban ngày các sư đi làm lụng như người thường (cư sĩ) trong các công xưởng, văn phòng hay quán ăn.
Về chùa khi lễ lượt mới mặc y áo tăng sĩ. Cuối thập niên 60, trong mấy năm dài chúng tôi chung sống với nhau dưới mái nhà làm trụ sở Phật giáo ở số 11, rue de Vénus, thị xã Maisons-Alfort, ngoại ô Nam Paris. 
Thời ấy, ông Nhất Hạnh và bà Cao Ngọc Phượng (sau này cạo đầu xuất gia lấy tên Chân Không) sống đời sống đôi cặp tự do, không giấu diếm, tuy ông không cổi áo công khai hóa ngoài xã hội. Cùng sống với chúng tôi lúc ấy có 7 vị Tăng và 6 cư sĩ. Sau này 5 trong số 7 vị Tăng này đã hoàn tục (một vị hiện sống ở Paris và một vị nay ở Saigon). Kinh Phật dạy y pháp bất y nhân, nghĩa là y vào Pháp Phật mà học và tu, đừng nệ tới con người. Người bình dân cũng nói ai tu nấy chứng. Quan điểm tôi, việc lấy vợ hay không chẳng quan trọng cho bằng đức hạnh, trình độ tu chứng và nỗ lực cứu đời.

Lê Thị Huệ: Đạo Bụt của ông Nhất Hạnh, ông nghĩ sao ?
Võ Văn Ái: Ông Nhất Hạnh có công giới thiệu đạo Phật theo giáo phái Làng Mai của ông ấy cho giới thị dân Âu Mỹ. Những người mà đời sống bị thúc bách, đè nén thường xuyên vì công ăn việc làm hay đời sống bon chen ở các thị trấn. Nên họ bị Stress.

Các khóa tu học cuối tuần của đạo Bụt cấm dùng điện thoại, không được xem Tivi, bắt hít thở trong không khí miền quê hay rừng núi, vừa đi vừa hít thở thiền hành, tập cười, tập ôm nhau thân ái (Thiền Ôm)khi có nhu cầu, làm cho con người thư giản, làm an dịu thân tâm. 

(Hiện nay môn Thiền Ôm của "tiền sư" đã có hàng triệu môn đồ ở Việt nam trong giới Bia Ôm, Karaoke Ôm, Bida Ôm ...etc )

Một lối tu tập Yoga. Song tiến xa hơn vào đời sống tâm linh của đạo Phật, thì dường như Đạo Bụt không thành công. Tôi gặp một số bạn Tây phương thích thú theo học giáo phái Làng Mai nhưng bỏ nửa chừng để quay sang đường lối tu tập Phật giáo Tây Tạng. Đạo Bụt của ông dịu dàng, thiên về tự kỷ ám thị hơn là khai mở chân tâm. Đánh một tiếng chuông mỉm miệng cười, dán những câu thơ / kệ trong phòng tắm, phòng ngủ, trẻ em đi học về ôm mẹ nói “Mẹ ơi, con thương mẹ lắm”, v.v… có cái gì rất Pavlov, không tự nhiên.

Chứng tỏ phương pháp này xuất phát từ những con người sống quá lâu trong dồn nén, ẩn ức, bất bình thế sự, không thỏa mãn tình dục. Trong truyền thống tu học Phật giáo của giới xuất gia từ nghìn xưa thì các bộ Luật Sa di và Sa di ni nghiêm túc, trang nghiêm, cẩn trọng và có phương pháp hơn nhiều. Đạo là thông lưu không trở ngại. Thiền là hành động tự nhiên hơn sự giải thích bằng ngôn ngữ hay cử điệu. Một cái vỗ vai với người bạn, một ánh mắt đối với mẹ sẽ ý nhị và làm thay những câu nói hay cử động cải lương kia. Ngay việc sử dụng chữ Bụt thay cho chữ Phật thường dụng trong quần chúng Việt Nam qua nhiều thế kỷ, tôi thấy như có gì trình diễn, cải lương, lập dị hơn là một thay đổi có tính bản thể. Sự thất bại của đạo Bụt thấy rõ ở các nước Á châu như Nhật Bản, Nam Hàn, Việt Nam. 
Mười mấy năm trước, chuyến đi thuyết trình của ông Nhất Hạnh tại Nhật thất bại nên ông không còn trở lại. Hai Thượng toạ Hộ Tùng Nghĩa Tình và Hoàn Sơn Chiếu Hùng mà tôi gặp tại Tâm Quang Viện ở Tokyo, thành viên Phật giáo Quốc tế Hiệp lực và ở trong ban tổ chức chuyến đi một tháng cho ông Nhất Hạnh nói với tôi như thế. Hỏi lý do, hai vị bảo rằng người Nhật không chấp nhận lối Pháp đàm và cách trình bày về Phật giáo của ông Nhất Hạnh. Loại “Thiền ôm hít thô sơ” chạm trán với dòng Thiền thâm hậu Nhật Bản vốn có truyền thống tu chứng thành nếp văn hoá tâm linh cao cả, ắt phải tiêu ma.

Cho nên đạo Bụt của ông Nhất Hạnh chỉ thành công phần nào tại các nước phương Tây cho giới thị dân và giới cựu quân nhân Mỹ có vấn đề tâm thần sau cuộc chiến khủng khiếp tại Việt Nam. Đó là nói chuyện trong thế giới. Trở về cố hương, Huế là pháo đài của ông Nhất Hạnh, chùa Từ Hiếu là sở hữu kế thừa của ông. 
Trước chuyến về Việt Nam lần đầu năm 2005, đa số Phật tử Huế xem ông là thần tượng, nếu không là Bụt sống. Họ xem Làng Mai như cõi Tịnh độ. Thế nhưng hành xử của ông khi được tiếp xúc, cùng với cung cách giáo phái Làng Mai đã thất bại nặng nề tại Huế. Tôi chợt nhớ lời phê bình của Bùi Giáng nhắc tới lúc nãy. Một Tăng sĩ ở Huế viết thư cho tôi có câu : “Chư Tăng ở Huế rất náo nức và hả dạ ngày Thầy Nhất Hạnh mới trở về. Nhưng nay khi Thầy Nhất Hạnh ra đi thì ai nấy đều ê chề, oán hận thấu trời xanh, mà không nói được nên lời”. Chuyến đầu về Huế năm 2005 hàng bao nhiêu nghìn Phật tử đón rước, thế nhưng mấy lần sau rất tiêu điều theo lời thuật của Phật tử Huế. Phải chăng đạo Bụt và người dạy đạo Bụt thích hợp với một số thị dân Âu Mỹ, nhưng không hợp với tạng người Việt ?

Sự mơ mộng hão huyền của ông còn thấy qua lời ông khuyên Tổng thống George W. Bush ngày quân khủng bố Al Qaida đánh sập hai cao ốc TwinTowers ở New York (11.9.2001). Ông lên tiếng trên truyền thông báo chí khuyên Tổng thống Bush đi gặp Ben Laden, hai bên hãy lắng nghe nhau để giải quyết việc đời theo cái điệu “Hiểu và Thương” của giáo phái Làng Mai ! Nội bộ những tín đồ Làng Mai còn chưa “hiểu và thương” nhau, nói chi những người ở xa vạn dặm ? Ở đây tôi không muốn đào sâu việc trước ba nghìn người chết thảm thương trong vụ Twin Towers ở New York, ông Nhất Hạnh chẳng quặn lòng, lại nhân dịp ấy đưa những con số khổng lồ mấy trăm nghìn dân Bến Tre bị chết vì không quân Hoa Kỳ oanh tạc ! Cộng đồng người Việt Tị nạn đã phẫn nộ và phản ứng mạnh mẽ vụ tuyên bố tuỳ hứng này.
Ông Nhất Hạnh giải quyết “chính trị thế giới” hay “đạo lý thế giới” như vậy quả là “tuyệt tác”. Song không kém phần ngây thơ nếu không nói lẩm cẩm. Giá dụ cách thế ấy là chìa khoá cho nhân loại đại đồng, hẳn trái đất đã là Thiên đường hay Niết Bàn từ bao đời, Chúa Jesus, đức Phật, Khổng Khưu, Lão Tử… chắc đã lấy hưu non từ lâu ? 
Tôi bỗng nhớ lời Mai Thảo phê bình cuốn sách “Nói với Tuổi Hai mươi” [8] của Nhất Hạnh trên tạp chí Nghệ Thuật. Cuốn sách gây sôi nổi một thời trong giới trẻ ở Saigon, mà mục tiêu nhằm đánh phủ đầu Phạm Công Thiện với ý thức nổi loạn chống thế hệ cha anh làm cho đất nước điêu linh hai mươi năm trường, mà họ Phạm viết trong sách “Ý thức Mới trong Văn nghệ và Triết học”. Ông Nhất Hạnh khuyên Tuổi Hai Mươi “ Thương nhau, chúng ta sẽ tìm thấy con đường. Thương nhau, chúng ta sẽ làm nên lịch sử”. Mai Thảo phê thứ triết lý ấy khác chi nói “sau cơn mưa trời sẽ nắng” ! Còn Bùi Giáng thì phản ứng bằng bài viết “Nói với tuổi Chín mươi”.

(Té ra ông Bùi Giáng đâu có điên !)

Ngoc Nhi Nguyen

*** Thích Nhất Hạnh đòi qua Mỹ chữa bệnh , kêu gọi đàn na tín chúng đóng góp tiền trả viện phí cho " thầy " !
Thiền sư Thích Nhất Hạnh , người đã quyết liệt chống phá chế độ VNCH , chống Mỹ , bắt Mỹ rút quân về không cho Mỹ tiếp tục giúp miền Nam về quân sự chống lại quân " giải phóng " Bắc Việt , người đề ra phong trào " Phật giáo nhập thế , Phật tử xuống đường " tạo cơ hội cho CS sử dụng Phật giáo thành công cụ , sản sinh ra cái thứ thối nát gọi là Phật giáo quốc doanh ngày nay , đã ra quyết định đòi sang Mỹ chữa bệnh , với chi phí lên tới hàng trăm ngàn đô la !! Vì " thầy " đòi chữa ở bệnh viện tân tiến nhất , với giàn bác sĩ chuyên khoa tài giỏi nhất !!

Cách đây ít lâu , quả báo hiện hình , Thích Nhất Hạnh bị tai biến mạch máu não , bị hôn mê và liệt nửa người . Nay đã tỉnh nhưng vẫn không nói được và vẫn bị bán thân bất toại . Không hài lòng với hiện trạng của mình , Thích Nhất Hạnh đòi đệ tử đưa sang Mỹ để chữa bệnh tiếp , mặc dù lúc trẻ đã cực lực chống Mỹ !

Đệ tử Làng Mai không có đủ tiền chi trả kinh phí nên đang kêu gọi sự đóng góp của đàn na tín chúng . Việc làm này đã khiến cho dư luận có nhiều người chê bai , chỉ trích là thiền sư tu Phật mà còn quá ham muốn , còn quá lưu luyến cái thân trần tạm bợ , không những không chịu buông xả mà còn làm phiền người khác xin tiền vì cái nhục thân của mình .

Lá rụng thì về cội , mang tư tưởng phù trợ cộng sản thì cuối cùng rồi cũng sẽ hành xử giống cộng sản , chẳng khác gì đám lãnh đạo quan tham CSVN đánh Mỹ chửi Mỹ cho đã rồi cuối đời cũng chạy qua Mỹ xin chữa bệnh hay xin sống ké .

Duyên nghiệp , quả báo mình tạo , không vì mình nổi tiếng hay lừa bịp được nhiều người mà chừa mình ra đâu nhé .







*** Một số thắc mắc về Thích Nhất Hạnh
1- Thích Nhất Hạnh chống chiến tranh Việt Nam vì hòa bình chăng ?
Không ! Hoàn toàn không ! Đây là chỉ là chiêu bài núp bóng hòa bình chống chiến tranh để ép Mỹ rút quân để giúp CS Bắc Việt sớm " phỏng giái " được miền Nam thôi .

Ai cũng biết Mỹ không xâm lược VN , VNCH cũng không gây chiến tranh . Kẻ gây chiến là CS Bắc Việt và Hồ Chí Minh , do Liên Xô và Trung Cộng trợ giúp , VNCH chỉ là chiến đấu tự vệ .

Nếu ông Thích Nhất Hạnh thật sự vì hòa bình , thì ông ta phải đi ra ngoài Bắc , và đi Liên Xô , đi Trung Quốc mà phản đối chiến tranh , vì chỉ cần HCM ngưng xâm lược miền Nam là hết chiến tranh ngay đó mà , đúng chưa ? Tại sao ông ta lại chỉ qua Mỹ để chống phá trong khi Mỹ giúp miền Nam tự vệ thôi ?

Nếu ông ta vì hòa bình thì sao năm 1968 , 2 bên đình chiến ăn Tết , HCM vẫn bất ngờ cho quân tấn công Huế và Saigon , giết bao nhiêu ngàn dân vô tội thì lúc đó ông Thích Nhất Hạnh lại im re không thấy lên án CS ?

Nếu ông vì hòa bình sao sau năm 1973 Mỹ rút quân hết , CS ký xong Hiệp định Paris đình chiến rồi lại phản lại hiệp định đem quân tấn công tiếp vào Saigon , suốt 2 năm từ 1973 đến 1975 sao ông im re không phản đối CS gây chiến đi ?

2- Thích Nhất Hạnh chống chính quyền VNCH 1 và 2 vì bảo vệ Phật giáo chăng ?
Không ! Cũng hoàn toàn không ! Nếu ông ta thực sự quan tâm bảo vệ Phật giáo thì đã không tự chế ra cái đạo Bụt kỳ quái của ông , không tự chế ra giáo điều cho riêng tín đồ của ông , không lúc thì nghỉ tu lấy vợ là bà Cao Ngọc Phượng , lúc lại cạo đầu mặc áo nâu !

Và ông sẽ càng không áo mão lọng vàng sáng chóe xúng xính về chủ trì Vesak cho Việt cộng giữa lúc CSVN đang đàn áp tôn giáo dã man . Ông cũng không thể đứng chung với đám vô thần lãnh đạo CS như Nguyễn Minh Triết , càng không tay bắt mặt mừng với những tên đồ tể như Võ Nguyên Giáp , hay những tên sư đảng viên phá nát Phật giáo như Thích Trí Quảng !

3- Thế giới tôn trọng ông chăng ?
Cũng không luôn ! Chỉ có 1 số nhỏ tụi Tây Phương chả hiểu gì về Phật pháp vi diệu thích tu theo cái kiểu " thiền tự do " của ông tôn trọng ông mà thôi .

Nghĩ lại xem , tại sao suốt 60 năm , năm nào đệ tử ông cũng đề cử xin cho ông được giải Nobel hòa bình mà chẳng bao giờ ông được ? Mặc dù ông khoe khoang là người thứ 2 sau Đức Dalai Lama gì đấy !

Vì thật ra lãnh đạo và chính khách phương Tây họ rất hiểu ông có quan hệ như thế nào với độc tài CS và ông đã tiếp tay cho CS ra sao nên chẳng bao giờ họ chọn ông cho giải hòa bình này cả , mặc dù ông luôn miệng quảng cáo peace .. peace ...

Chuyện của ông thiền sư này dài lắm , sơ sơ 3 điều như thế và 1 số hình ảnh để mọi người xem và suy nghĩ .

No comments:

Post a Comment